Skip to main content

Author: TNTP LAW

Những nội dung cơ bản cần biết về hợp đồng dịch vụ

Hợp đồng dịch vụ là một loại hợp đồng dân sự thông dụng, được sử dụng phổ biến trong xã hội hiện nay. Để đảm bảo thực hiện hợp đồng theo đúng quy định của pháp luật và hạn chế tranh chấp có thể xảy ra, việc hiểu rõ quy định của pháp luật về hợp đồng dịch vụ là vô cùng cần thiết. Trong bài viết này, TNTP sẽ phân tích một số nội dung cơ bản về loại hợp đồng này.

I. Hợp đồng dịch vụ là gì?

Theo quy định tại Điều 513 Bộ Luật Dân sự 2015, hợp đồng dịch vụ là sự thỏa thuận giữa các bên, theo đó bên cung ứng dịch vụ thực hiện công việc cho bên sử dụng dịch vụ, bên sử dụng dịch vụ phải trả tiền dịch vụ cho bên cung ứng dịch vụ.

Mặt khác, theo Khoản 9 Điều 3 Luật Thương mại 2005, cung ứng dịch vụ là hoạt động thương mại, theo đó một bên (sau đây gọi là bên cung ứng dịch vụ) có nghĩa vụ thực hiện dịch vụ cho một bên khác và nhận thanh toán; bên sử dụng dịch vụ (sau đây gọi là khách hàng) có nghĩa vụ thanh toán cho bên cung ứng dịch vụ và sử dụng dịch vụ theo thỏa thuận.

Như vậy, có thể thấy, hợp đồng đồng dịch vụ là loại hợp đồng có đối tượng là công việc. Trong hợp đồng dịch vụ, bên cung ứng dịch vụ phải thực hiện một công việc vì lợi ích của bên sử dụng dịch vụ và bên sử dụng dịch vụ có nghĩa vụ phải thanh toán tiền dịch vụ cho bên cung ứng dịch vụ trên cơ sở các nội dung trong hợp đồng hoặc theo quy định của pháp luật.

II. Đặc điểm pháp lý của hợp đồng dịch vụ

Thứ nhất, hợp đồng dịch vụ là hợp đồng song vụ, hai bên trong hợp đồng phải thực hiện nghĩa vụ đối với nhau. Theo đó, bên cung ứng dịch vụ thực hiện một công việc đã thỏa thuận vì lợi ích của bên sử dụng dịch vụ. Còn bên sử dụng dịch vụ có nghĩa vụ phải trả tiền cho bên cung ứng dịch vụ.

Thứ hai, hợp đồng dịch vụ là hợp đồng có đền bù. Theo đó, bên sử dụng dịch vụ phải trả tiền dịch vụ cho bên cung ứng dịch vụ sau khi bên cung ứng dịch vụ đã thực hiện xong công việc. Trường hợp dịch vụ được cung ứng không đạt được như thỏa thuận hoặc công việc không được hoàn thành đúng thời hạn thì bên sử dụng dịch vụ có quyền giảm tiền dịch vụ và yêu cầu bồi thường thiệt hại.

Thứ ba, như đã đề cập ở trên, đối tượng của hợp đồng dịch vụ là công việc mà bên cung ứng dịch vụ phải thực hiện vì lợi ích của bên sử dụng dịch vụ. Công việc được coi là đối tượng trong hợp đồng dịch vụ phải là những công việc có thể thực hiện được. Đồng thời, công việc đó phải là những công việc không bị pháp luật cấm, không trái đạo đức xã hội và phải được thực hiện bởi các chủ thể có quyền cung ứng dịch vụ.

III. Hình thức của hợp đồng dịch vụ

Căn cứ Điều 74 Luật Thương mại 2005, hợp đồng dịch vụ có thể được thể hiện bằng lời nói, bằng văn bản hoặc được xác lập bằng hành vi vụ thể. Đối với các loại hợp đồng dịch vụ mà pháp luật quy định phải được lập thành văn bản thì phải tuân theo các quy định đó. Ví dụ, theo quy định tại Điều 90 và Điều 124 Luật Thương mại 2005, hợp đồng dịch vụ khuyến mại và hợp đồng dịch vụ trưng bày, giới thiệu hàng hóa, dịch vụ phải được lập thành văn bản hoặc bằng hình thức khác có giá trị tương đương. Các hình thức có giá trị pháp lý tương đương ở đây bao gồm điện báo, telex, fax, thông điệp dữ liệu và các hình thức khác theo quy định của pháp luật (Khoản 15 Điều 3 Luật Thương mại 2005), hay nói cách khác là hợp đồng được ký kết dưới dạng hợp đồng điện tử (Điều 33 Luật Giao dịch điện tử 2005).

IV. Những nội dung cơ bản của hợp đồng dịch vụ

Hợp đồng dịch vụ có thể bao gồm các điều khoản cơ bản như sau:

+ Đối tượng của hợp đồng dịch vụ;
+ Quyền và nghĩa vụ của bên sử dụng dịch vụ;
+ Quyền và nghĩa vụ của bên cung ứng dịch vụ;
+ Thanh toán tiền dịch vụ;
+ Sự kiện bất khả kháng;
+ Phạt vi phạm và bồi thường thiệt hại;
+ Đơn phương chấm dứt thực hiện hợp đồng dịch vụ;
+ Tiếp tục hợp đồng dịch vụ;
+ Giải quyết tranh chấp;
+ Điều khoản chung về hiệu lực.

Trên đây là nội dung bài viết “Những nội dung cơ bản cần biết về hợp đồng dịch vụ” mà TNTP gửi đến bạn đọc. Nếu có bất kỳ thắc mắc nào, vui lòng liên hệ với TNTP để được hỗ trợ tốt nhất.

Trân trọng,

Những điều khoản cần có trong hợp đồng dịch vụ

Nhằm giúp bạn đọc có thêm những thông tin hữu ích về việc soạn thảo hợp đồng dịch vụ, TNTP sẽ phân tích một số điều khoản mà các bên cần lưu ý khi soạn thảo hợp đồng dịch vụ bao gồm thời hạn hoàn thành dịch vụ, quyền và nghĩa vụ của các bên, tiếp tục thực hiện hợp đồng và đơn phương chấm dứt thực hiện hợp đồng.

1. Thời hạn hoàn thành dịch vụ

Các bên cần quy định cụ thể về thời hạn hoàn thành công việc, bởi lẽ đây sẽ là căn cứ để xác định việc bên cung ứng dịch vụ có vi phạm hợp đồng hay không. Trường hợp không có thỏa thuận cụ thể thì bên cung ứng dịch vụ phải hoàn thành dịch vụ trong một thời hạn hợp lý. Thời hạn này được xác định dựa trên các điều kiện và hoàn cảnh mà bên cung ứng dịch vụ biết được vào thời điểm giao kết hợp đồng, bao gồm bất kỳ nhu cầu của khách hàng có liên quan đến thời gian hoàn thành dịch vụ.

Trường hợp một dịch vụ chỉ có thể được hoàn thành khi bên sử dụng hoặc bên cung ứng dịch vụ khác đáp ứng các điều kiện nhất định thì bên cung ứng dịch vụ đó không có nghĩa vụ hoàn thành dịch vụ của mình cho đến khi các điều kiện đó được đáp ứng. Do vậy, các bên nên thỏa thuận cụ thể về các điều kiện mà bên sử dụng dịch vụ hoặc bên cung ứng dịch vụ khác cần đáp ứng.

2. Quyền và nghĩa vụ của các bên

Hợp đồng dịch vụ là hợp đồng song vụ. Vì vậy, các bên trong hợp đồng đều có quyền và nghĩa vụ đối với nhau. Căn cứ vào tình hình thực tế, các bên tự thỏa thuận về quyền và nghĩa vụ của mình. Các bên có thể tham khảo một số nội dung cơ bản về quyền và nghĩa vụ của bên cung ứng và bên sử dụng như sau:

2.1. Quyền và nghĩa vụ của bên sử dụng dịch vụ

● Quyền: i) Yêu cầu bên cung ứng dịch vụ thực hiện công việc theo đúng chất lượng, số lượng, thời hạn và địa điểm như đã thỏa thuận; ii) Đơn phương chấm dứt thực hiện hợp đồng và yêu cầu bồi thường thiệt hại nếu bên cung ứng dịch vụ vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ đã thỏa thuận trong hợp đồng. Bên sử dụng nên thỏa thuận cụ thể các trường hợp được coi là bên cung ứng vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ đã thỏa thuận trong hợp đồng để làm căn cứ yêu cầu bên cung ứng phải chịu phạt vi phạm.

● Nghĩa vụ: i) Thanh toán tiền dịch vụ cho bên cung ứng dịch vụ; ii) Cung cấp đầy đủ các thông tin, tài liệu liên quan đến dịch vụ đối với hợp đồng dịch vụ mà cần phải có thông tin, tài liệu, phương tiện mới thực hiện được.

2.2. Quyền và nghĩa vụ của bên cung ứng dịch vụ

● Quyền: i) Yêu cầu bên sử dụng dịch vụ trả tiền dịch vụ; ii) Yêu cầu bên sử dụng dịch vụ cung cấp thông tin, tài liệu và phương tiện để thực hiện công việc; iii) Được thay đổi điều kiện dịch vụ vì lợi ích của bên sử dụng dịch vụ mà không nhất thiết phải chờ ý kiến của bên sử dụng dịch vụ, nếu việc chờ ý kiến sẽ gây thiệt hại cho bên sử dụng dịch vụ, nhưng phải báo ngay cho bên sử dụng dịch vụ; iv) Yêu cầu bên sử dụng dịch vụ cung cấp giấy phép phục vụ cho việc triển khai dịch vụ; v) Được cảnh báo các sự kiện bất thường từ bên sử dụng dịch vụ.

● Nghĩa vụ: i) Thực hiện công việc đúng chất lượng, số lượng, thời hạn và địa điểm như đã thỏa thuận; ii) Không được giao cho người khác thực hiện thay công việc nếu không có sự đồng ý của bên sử dụng dịch vụ; iii) Bảo quản và phải giao lại cho bên sử dụng dịch vụ tài liệu và phương tiện được giao sau khi hoàn thành công việc; iv) Báo ngay cho bên sử dụng dịch vụ về việc thông tin, tài liệu không đầy đủ, phương tiện không bảo đảm chất lượng để hoàn thành công việc; v) Giữ bí mật thông tin mà mình biết được trong thời gian thực hiện công việc, nếu có thỏa thuận hoặc pháp luật có quy định; vi) Bồi thường thiệt hại cho bên sử dụng dịch vụ, nếu làm mất, hư hỏng tài liệu, phương tiện được giao hoặc tiết lộ bí mật thông tin; vii) Cảnh báo các rủi ro có thể xảy ra trong quá trình thực hiện công việc cho bên sử dụng dịch vụ; viii) Xây dựng các phương án thực hiện dịch vụ; ix) Điều chỉnh nội dung đã đàm phán trong trường hợp hợp đồng có sự thay đổi; x) Tập hợp thông tin trước khi thực hiện công việc.

3. Tiếp tục thực hiện hợp đồng

Điều 521 Bộ luật Dân sự 2015 quy định rằng, “Sau khi kết thúc thời hạn thực hiện công việc theo hợp đồng dịch vụ mà công việc chưa hoàn thành và bên cung ứng dịch vụ vẫn tiếp tục thực hiện công việc, bên sử dụng dịch vụ biết nhưng không phản đối thì hợp đồng dịch vụ đương nhiên được tiếp tục thực hiện theo nội dung đã thỏa thuận cho đến khi công việc được hoàn thành.” Do vậy, bên sử dụng nên cân nhắc việc có quy định trong hợp đồng về việc bên cung ứng có nghĩa vụ tiếp tục thực hiện công việc trong trường hợp công việc chưa hoàn thành và thời hạn thực hiện công việc kết thúc không. Trường hợp không đồng ý để bên cung ứng tiếp tục thực hiện hợp đồng, bên sử dụng nên quy định rõ về điều này trong hợp đồng.

4. Đơn phương chấm dứt thực hiện hợp đồng

Các bên nên cân nhắc thỏa thuận cụ thể các trường hợp đơn phương chấm dứt thực hiện hợp đồng. Các bên có thể tham khảo quy định tại Điều 520 Bộ luật Dân sự 2015, “Trường hợp việc tiếp tục thực hiện công việc không có lợi cho bên sử dụng dịch vụ thì bên sử dụng dịch vụ có quyền đơn phương chấm dứt thực hiện hợp đồng, nhưng phải báo cho bên cung ứng dịch vụ biết trước một thời gian hợp lý; bên sử dụng dịch vụ phải trả tiền công theo phần dịch vụ mà bên cung ứng dịch vụ đã thực hiện và bồi thường thiệt hại. Trường hợp bên sử dụng dịch vụ vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ thì bên cung ứng dịch vụ có quyền đơn phương chấm dứt thực hiện hợp đồng và yêu cầu bồi thường thiệt hại.”

Ngoài các điều khoản nêu trên, các bên có thể thỏa thuận thêm trong hợp đồng về điều khoản sự kiện bất khả kháng; điều khoản giải quyết tranh chấp; điều khoản phạt vi phạm và bồi thường thiệt hại;…

Trên đây là nội dung bài viết “Những điều khoản cần có trong hợp đồng dịch vụ” mà TNTP gửi đến bạn đọc. Nếu có bất kỳ thắc mắc nào, vui lòng liên hệ với TNTP để được hỗ trợ tốt nhất.

Trân trọng,

Hướng dẫn soạn thảo những điều khoản cơ bản trong hợp đồng vận chuyển tài sản

Hiện nay, nhu cầu mua bán tài sản của cá nhân, pháp nhân ngày càng tăng cao, dẫn theo đó là nhu cầu vận chuyển tài sản ngày càng gia tăng. Để đảm bảo quyền lợi của bên vận chuyển và bên thuê vận chuyển, ngay từ khâu soạn thảo hợp đồng, các bên cần cẩn trọng và chính xác trong từng điều khoản của hợp đồng. Thông thường, hợp đồng vận chuyển tài sản sẽ bao gồm các nội dung như thông tin của các bên, mô tả chi tiết về tài sản được vận chuyển, thời gian và phương thức vận chuyển,… Trong bài viết dưới đây, TNTP sẽ phân tích những nội dung mà các bên cần lưu ý trong quá trình soạn thảo hợp đồng vận chuyển tài sản.

1. Các bên ký kết hợp đồng

Các bên cần nêu rõ thông tin về người vận chuyển và thuê vận chuyển trong hợp đồng. Cá nhân cần nêu rõ thông tin như tên, căn cước công dân, địa chỉ liên hệ, số điện thoại, mail,… Pháp nhân cần có tên, địa chỉ trụ sở, mã số thuế, người ký hợp đồng (người đại diện theo pháp luật hoặc theo ủy quyền),… Khi vận chuyển tài sản, đặc biệt là các tài sản có giá trị lớn, bên thuê vận chuyển cần tìm công ty vận chuyển uy tín, có thông tin xác thực, tránh trường hợp bị lừa đảo. Khi ký hợp đồng vận chuyển, các bên cần lưu ý về thẩm quyền ký kết hợp đồng của các bên, tránh trường hợp người ký hợp đồng không có thẩm quyền ký kết hợp đồng.

2. Đối tượng vận chuyển

Đối tượng vận chuyển có thể là máy móc, thiết bị, nguyên vật liệu, nhiên liệu, hàng tiêu dùng và các động sản khác, kể cả động vật sống, container,… Trước khi giao kết hợp đồng vận chuyển, bên vận chuyển cần kiểm tra tính pháp lý của tài sản vận chuyển, cụ thể là cần xác định rõ tài sản này có thuộc diện bị cấm và hạn chế vận chuyển không, có thuộc diện tài sản nguy hiểm không, có yêu cầu đặc thù nào khi vận chuyển loại tài sản đó không,… Việc xác định tính pháp lý của tài sản vận chuyển là điều bắt buộc mà bên vận chuyển phải thực hiện bởi lẽ nếu không tuân thủ các quy định pháp luật về vận chuyển thì bên vận chuyển có thể phải chịu trách nhiệm dân sự như bồi thường thiệt hại, bị xử lý vi phạm hành chính, hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự.

Sau khi xác định tính hợp pháp của loại tài sản vận chuyển cũng như các điều kiện cần tuân thủ khi vận chuyển loại tài sản đó, các bên cần quy định cụ thể về thông tin của tài sản như số lượng, chủng loại, kiểu dáng, mẫu mã, giá trị,… Ví dụ, đối với tài sản là ti vi, các bên cần thỏa thuận rõ về giá trị, nhãn hiệu, chủng loại, kích thước màn hình, loại màn hình, năm sản xuất, tình trạng,… tránh việc chỉ thỏa thuận chung chung là vận chuyển ti vi mà không nêu rõ các thông tin về ti vi. Việc thỏa thuận rõ ràng về đối tượng vận chuyển là yếu tố then chốt giúp các bên giải quyết các tranh chấp về đối tượng hợp đồng như tài sản bị đánh tráo, tài sản bị mất, bị hư hỏng, tài sản được giao bị thiếu,…

Tại điều khoản này, các bên nên thỏa thuận rõ về việc đóng gói tài sản, đặc biệt đối với loại tài sản có giá trị lớn, tài sản dễ hư hỏng,…

3. Thời gian giao và nhận tài sản

Các bên cần thỏa thuận rõ trong hợp đồng về thời gian bắt đầu và kết thúc vận chuyển tài sản; thời điểm bên thuê vận chuyển giao tài sản cho bên vận chuyển; thời gian bên vận chuyển giao tài sản cho bên nhận tài sản.

Việc quy định về các nội dung nêu trên trong hợp đồng sẽ xác định được nghĩa vụ tương ứng đối với từng bên. Theo đó, các bên nên thỏa thuận một số nội dung sau trong hợp đồng như: Bên thuê vận chuyển có nghĩa vụ giao tài sản cho bên vận chuyển đúng thời hạn đã thỏa thuận. Trường hợp bên thuê vận chuyển giao tài sản không đúng thời hạn thì phải thanh toán chi phí chờ đợi và tiền vận chuyển tài sản đến địa điểm đã thỏa thuận trong hợp đồng cho bên vận chuyển. Hoặc trường hợp bên vận chuyển chậm tiếp nhận tài sản tại địa điểm đã thỏa thuận thì phải chịu chi phí phát sinh do việc chậm tiếp nhận.

Đồng thời, các bên cũng nên thỏa thuận về việc ký kết Biên bản giao nhận tài sản. Biên bản giao nhận tài sản được coi là bằng chứng về việc bên nhận tài sản đã nhận được đầy đủ, chính xác tài sản, đồng thời bên vận chuyển đã hoàn thành trách nhiệm giao tài sản của mình.

4. Địa điểm nhận tài sản

Thông thường địa điểm nhận tài sản là địa chỉ của bên nhận tài sản. Tuy nhiên, trong nhiều trường hợp địa điểm nhận tài sản có thể là kho bãi hoặc một địa điểm khác do bên nhận tài sản chỉ định. Do đó, địa điểm nhận tài sản cần được các bên thỏa thuận rõ trong hợp đồng.

Các bên cần thỏa thuận về hướng giải quyết khi tài sản được vận chuyển đến địa điểm giao hàng đúng thời hạn nhưng không có bên nhận tài sản. Bởi lẽ nếu các bên không thỏa thuận cụ thể về nội dung này thì nội dung này sẽ được điều chỉnh bởi Khoản 3 Điều 538 Bộ luật Dân sự 2015 như sau “Trường hợp tài sản đã được chuyển đến địa điểm giao tài sản đúng thời hạn nhưng không có bên nhận tài sản thì bên vận chuyển có thể gửi số tài sản đó tại nơi nhận gửi giữ và phải báo ngay cho bên thuê vận chuyển hoặc người thứ ba được bên thuê vận chuyển chỉ định nhận tài sản. Bên thuê vận chuyển hoặc người thứ ba được bên thuê vận chuyển chỉ định nhận tài sản phải chịu chi phí hợp lý phát sinh từ việc gửi giữ tài sản. Nghĩa vụ giao tài sản hoàn thành khi tài sản đã được gửi giữ và bên thuê vận chuyển hoặc người thứ ba được bên thuê vận chuyển chỉ định nhận tài sản đã được thông báo về việc gửi giữ.”

5. Thanh toán phí vận chuyển

Cước phí vận chuyển là một nội dung vô cùng quan trọng trong hợp đồng vận chuyển tài sản. Cước phí vận chuyển do các bên thỏa thuận. Tuy nhiên, nếu pháp luật có quy định về mức cước phí vận chuyển thì áp dụng mức cước phí đó.

Các Bên cần thỏa thuận rõ ràng về các nội dung về cước phí vận chuyển như cước phí này đã bao gồm chi phí xếp, dỡ tài sản lên phương tiện vận chuyển chưa; cước phí vận chuyển có phải trọn gói không, có phát sinh chi phí gì thêm không; cước phí này đã bao gồm thuế giá trị gia tăng chưa;…

Cùng với chi phí vận chuyển, các bên cần thỏa thuận về phương thức thanh toán trong hợp đồng. Các bên có thể lựa chọn việc thanh toán theo đợt hoặc thanh toán toàn bộ. Đồng thời, các bên cần thỏa thuận về thời hạn thanh toán, các bên có thể tham khảo quy định về thời hạn thanh toán như sau: thanh toán toàn bộ chi phí vận chuyển ngay sau khi các bên ký kết hợp đồng vận chuyển tài sản hoặc ngay sau khi bên nhận tài sản nhận được tài sản hoặc ngay sau khi bên vận chuyển nhận được tài sản để vận chuyển; thanh toán từng đợt tương ứng với từng giai đoạn như ký kết hợp đồng, bên vận chuyển nhận được tài sản để vận chuyển, bên nhận tài sản đã nhận được tài sản;…

Trên đây là nội dung bài viết “Hướng dẫn soạn thảo những điều khoản cơ bản trong hợp đồng vận chuyển tài sản” mà TNTP gửi đến bạn đọc. Nếu có bất kỳ vấn đề nào cần hỗ trợ, vui lòng liên hệ với TNTP để được hỗ trợ tốt nhất.

Trân trọng,

Hướng dẫn soạn thảo những điều khoản cơ bản trong hợp đồng dịch vụ

Hợp đồng dịch vụ là một loại hợp đồng mà bên cung ứng dịch vụ thực hiện công việc cho bên sử dụng dịch vụ và bên sử dụng dịch vụ có nghĩa vụ trả tiền cho bên cung ứng dịch vụ. Kỹ năng soạn thảo hợp đồng dịch vụ là một trong những kỹ năng cần thiết cho những người đang làm việc trong lĩnh vực cung ứng dịch vụ. Việc soạn thảo hợp đồng dịch vụ yêu cầu kiến thức chuyên môn về pháp lý, kinh doanh, và cách thức hoạt động của ngành cung cấp dịch vụ. Tuy nhiên, để hiểu và vận dụng linh hoạt quy định pháp luật, tình hình thực tiễn,… là điều tương đối phức tạp. Do vậy, trong bài viết này, TNTP sẽ phân tích những nội dung cơ bản mà các bên cần lưu ý khi thực hiện soạn thảo hợp đồng dịch vụ.

1. Thông tin của các bên tham gia hợp đồng

Các bên trong hợp đồng dịch vụ có thể là cá nhân hoặc tổ chức. Cá nhân cần ghi rõ những thông tin sau: họ tên, căn cước công dân/ hộ chiếu, địa chỉ, thông tin liên hệ (số điện thoại/email). Tổ chức cần ghi rõ những thông tin sau: tên, mã số thuế, địa chỉ, thông tin liên hệ (số điện thoại, email), họ tên và chức vụ của người ký kết hợp đồng (đại diện theo pháp luật hoặc theo ủy quyền),…

Đối với doanh nghiệp, việc giao kết hợp đồng phải được thực hiện bởi đại diện theo pháp luật hoặc đại diện theo ủy quyền. Thông tin về người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp thường được thể hiện trong Điều lệ công ty và Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp. Nếu người đại diện giao kết hợp đồng không phải là người đại diện theo pháp luật của công ty thì cần có văn bản ủy quyền. Vì vậy, để tránh rủi ro hợp đồng bị vô hiệu do được xác lập bởi đại diện không có thẩm quyền, các bên cần yêu cầu xuất trình một trong các giấy tờ, tài liệu nêu trên khi giao kết hợp đồng.

Khi giao kết hợp đồng, bên sử dụng dịch vụ cần đặc biệt chú ý đến năng lực hành vi dân sự của bên cung ứng dịch vụ, hay nói cách khác là việc bên cung ứng dịch vụ có đáp ứng được đầy đủ các yêu cầu của pháp luật đối việc cung ứng dịch vụ hay không, để tránh trường hợp sử dụng dịch vụ của đơn vị không có quyền cung ứng dịch vụ. Năng lực hành vi dân sự của bên cung ứng được xác định trong từng trường hợp như sau: i) Chỉ được cung ứng dịch vụ khi có chứng chỉ, bằng cấp và phải đăng ký với cơ quan nhà nước có thẩm quyền; ii) Chỉ được cung ứng dịch vụ sau khi đăng ký hoạt động tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền; iii) Cung ứng dịch vụ trong trường hợp không yêu cầu chứng chỉ, bằng cấp và không đăng ký hoạt động tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền.

2. Đối tượng của hợp đồng dịch vụ (phạm vi công việc cần thực hiện)

Theo quy định của pháp luật, đối tượng của hợp đồng dịch vụ là công việc có thể thực hiện được, không vi phạm điều cấm của luật, không trái đạo đức xã hội. Các hoạt động dịch vụ thuộc phạm vi điều cấm pháp luật bao gồm các trường hợp sau: i) Các hoạt động bị cấm thực hiện được luật hóa trong các quy phạm pháp luật như vận chuyển trái phép hàng qua biên giới, vận chuyển ma túy,… ii) Các hoạt động mà bên cung ứng không đáp ứng điều kiện thực hiện. Trước khi thực hiện các dịch vụ nhất định như dịch vụ y tế, dịch vụ bảo hiểm, dịch vụ pháp lý,… bên cung ứng phải thỏa mãn các điều kiện luật định. Chủ thể chưa đáp ứng các điều kiện luật định thì chưa có quyền thực hiện hoạt động cung ứng dịch vụ. Do vậy, trước khi giao kết hợp đồng, bên cung ứng dịch vụ cần xác định rõ dịch vụ mà mình được yêu cầu cung ứng có phải là công việc có thể thực hiện được không, có vi phạm điều cấm của luật không, có trái đạo đức xã hội không, từ đó quyết định việc có đồng ý cung ứng dịch vụ không.

Để đảm bảo việc thực hiện hợp đồng theo đúng nội dung đã thỏa thuận cũng như hạn chế các tranh chấp có thể xảy ra, các bên cần thỏa thuận rõ trong hợp đồng về công việc, phạm vi công việc mà bên cung ứng dịch vụ phải thực hiện. Nội dung công việc được thể hiện càng chi tiết sẽ giúp hạn chế rủi ro cho các bên.

3. Giá dịch vụ

Giá dịch vụ sẽ do các bên tự thỏa thuận. Tuy nhiên, đối với nhiều loại hình dịch vụ, Nhà nước có quy định về mức giá dịch vụ, như dịch vụ khám, chữa bệnh, trường hợp Nhà nước quy định về mức giá dịch vụ trong các bệnh viện, thì các bên cung ứng dịch vụ không được yêu cầu thanh toán vượt mức khung do Nhà nước quy định.

Giá dịch vụ là cơ sở để tính tiền dịch vụ và có ý nghĩa trực tiếp tới nghĩa vụ trả tiền dịch vụ của bên sử dụng, quyền nhận tiền dịch vụ của bên cung ứng. Do vậy, các bên cần quy định chi tiết về giá dịch vụ trong hợp đồng. Giá dịch vụ có thể được quy định là một số tiền cụ thể, được xác định theo công thức tính giá, được xác định theo bảng giá hoặc công thức tính giá được áp dụng bởi nhà cung ứng dịch vụ khác hoặc theo chính bảng giá của bên cung ứng dịch vụ.

4. Phương thức thanh toán giá dịch vụ

Các bên có thể thỏa thuận việc thanh toán bằng tiền mặt, chuyển khoản hoặc tiến hành ủy nhiệm chi cho ngân hàng,… Việc thanh toán tiền dịch vụ có thể thanh toán một lần hoặc chia thành nhiều lần tương ứng với từng giai đoạn thực hiện công việc. Các bên có thể thỏa thuận việc thanh toán cần thực hiện ngay sau khi các bên ký kết hợp đồng dịch vụ, ngay sau khi dịch vụ được cung ứng,… Pháp luật cho phép chủ thể có quyền tự do lựa chọn phương thức thanh toán nhưng phải tuân thủ quy định pháp luật về tài chính kế toán.

5. Giảm tiền dịch vụ

Bên sử dụng dịch vụ có thể quy định về việc giảm tiền dịch vụ trong hai trường hợp sau: dịch vụ được cung ứng không đạt như thỏa thuận; dịch vụ không được hoàn thành đúng thời hạn. Để hạn chế tranh chấp, các bên cần thỏa thuận cụ thể về mức giảm tiền dịch vụ trong hai trường hợp nêu trên.

Cung ứng dịch vụ không đạt như thỏa thuận sẽ được chia thành hai trường hợp sau: i) Kết quả công việc không đạt như kết quả dự liệu trong hợp đồng dịch vụ; ii) Quá trình thực hiện công việc không tuân thủ theo quy cách được ghi nhận trong hợp đồng dịch vụ. Để có thể giảm tiền trong trường hợp này, các bên phải mô tả chi tiết kết quả công việc hoặc quy cách thực hiện công việc. Việc không mô tả chi tiết sẽ dẫn đến hậu quả là bên sử dụng sẽ không có đầy đủ căn cứ để yêu cầu giảm tiền dịch vụ trong trường hợp bên cung ứng có vi phạm.

Đối với việc hoàn thành dịch vụ không đúng thời hạn, bên sử dụng cần quy định cụ thể thời hạn hoàn thành dịch vụ, đây là căn cứ quan trọng để xác định bên cung ứng có vi phạm quy định về thời hạn hay không.

Trên đây là nội dung bài viết “Hướng dẫn soạn thảo những điều khoản cơ bản trong hợp đồng dịch vụ” mà TNTP gửi đến bạn đọc. Nếu có bất kỳ thắc mắc nào, vui lòng liên hệ với TNTP để được hỗ trợ tốt nhất.

Trân trọng,

Những nguyên nhân dẫn đến biến tướng trong hoạt động Bancassurance tại Việt Nam

Trong thời gian gần đây, hoạt động Bancassurance đang phát sinh nhiều vấn đề gây bức xúc trong dư luận xã hội. Khởi nguồn từ những tâm sự, chia sẻ online của những người mua bảo hiểm đến hàng loạt các hội nhóm người mua bảo hiểm gửi đơn đề nghị cơ quan Công an giải quyết những hành vi có dấu hiệu phạm tội trong hoạt động bảo hiểm. Có thể thấy hoạt động Bancassurance tại Việt Nam đã phát sinh nhiều sự biến tướng khác nhau xâm phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp của khách hàng tham gia bảo hiểm. Trong bài viết này, luật sư của TNTP sẽ đưa ra những nguyên nhân chính dẫn đến biến tướng trong hoạt động Bancassurance tại Việt Nam.

1. Chất lượng tư vấn bảo hiểm qua ngân hàng còn nhiều bất cập

Hoạt động Bancassurance tại Việt Nam thường do các ngân hàng cung cấp dịch vụ bảo hiểm của các công ty bảo hiểm đối tác của ngân hàng. Khi đó, các nhân viên của ngân hàng sẽ là đội ngũ tư vấn trực tiếp bán bảo hiểm với khách hàng, tuy nhiên các nhân viên ngân hàng không được đào tạo bài bản, chỉ được qua các khóa học ngắn sơ lược về dịch vụ bảo hiểm nên họ không có hiểu biết sâu và đầy đủ về các dịch vụ bảo hiểm mình tư vấn cho khách hàng. Ngoài ra, do áp lực chỉ tiêu bán bảo hiểm kèm theo mức thù lao hậu hĩnh đã khiến một bộ phận không nhỏ các nhân viên ngân hàng đã cố ý đánh tráo khái niệm, đưa ra thông tin không đầy đủ về các gói bảo hiểm khiến khách hàng hiểu nhầm và giao kết hợp đồng bảo hiểm.

Khi được hưởng lợi ích quá lớn, nhiều nhân viên ngân hàng sẵn sàng sử dụng mọi biện pháp để chốt hợp đồng bảo hiểm với khách hàng, điều này không những đi ngược lại nguyên tắc thuận mua vừa bán mà còn tiềm ẩn khả năng cấu thành các tội phạm hình sự về lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản.

Hiện nay, theo một số nguồn tin thì rất nhiều người gửi tiết kiệm tại ngân hàng đã được nhân viên tư vấn mua gói “Tâm an đầu tư” là sản phẩm liên kết giữa ngân hàng và công ty bảo hiểm. Theo đó, nhân viên ngân hàng tư vấn đây là gói “tiết kiệm đầu tư” có lãi suất cao và “có tặng kèm bảo hiểm nhân thọ”, đồng thời khách hàng có thể rút toàn bộ vốn và lãi sau từ 5-6 năm. Khi nghe các lời tư vấn “có cánh” này từ nhân viên ngân hàng, các khách hàng đã tiến hành giao kết hợp đồng và gửi hàng trăm triệu đồng theo các nội dung được hướng dẫn. Tuy nhiên sau này khách hàng mới phát hiện ra số tiền mình gửi vào để đầu tư đã được ngân hàng chuyển vào đóng phí bảo hiểm nhân thọ và khách hàng không được rút toàn bộ số tiền đã nộp cho đến khi hoàn thành nghĩa vụ đóng bảo hiểm (từ vài năm đến vài chục năm). Nghiêm trọng hơn, nhân viên ngân hàng đã không cung cấp bất kỳ giấy tờ nào thể hiện các khoản phí khách hàng cần thanh toán, các nội dung liên quan đến việc giao kết hợp đồng bảo hiểm nhân thọ mà chỉ gửi khách hàng những mục cần ký.

Có thể thấy trong trường hợp này, nhân viên ngân hàng đã cố ý tư vấn sai sự thật, đánh tráo khái niệm “gửi tiết kiệm” và “bảo hiểm nhân thọ” khiến khách hàng hiểu nhầm. Đồng thời cố ý giấu đi các tài liệu thể hiện bản chất của giao dịch dân sự khiến khách hàng hoàn toàn không biết về bản chất của hợp đồng. Theo quy định của pháp luật, hành vi trên có thể cấu thành tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản theo quy định tại Điều 175 Bộ luật Hình sự, tùy vào mức độ vi phạm mà các đối tượng thực hiện hành vi này có thể bị áp dụng hình thức phạt từ từ 06 tháng, 03 năm cho đến 20 năm tù.

2. Quy định của pháp luật cần đảm bảo sự đồng bộ

Với Luật Kinh doanh bảo hiểm 2022 có hiệu lực kể từ ngày 01/01/2023, nhiều quy định về hoạt động bán bảo hiểm liên kết của các ngân hàng đã được quy định cụ thể và siết chặt lại trách nhiệm của các bên kinh doanh bảo hiểm. Ngoài ra, luật còn bổ sung thêm các quy định về hành vi bị nghiêm cấm khi kinh doanh hoạt động bảo hiểm như: Gian lân trong hoạt động bảo hiểm, giả mạo tài liệu, cố ý làm sai lệch thông tin hồ sơ, cưỡng ép, đe dọa giao kết hợp đồng bảo hiểm,…Các thay đổi này phần nào đã góp phần xây dựng một môi trường hoạt động Bancassurance lành mạnh hơn.

Tuy nhiên, đó mới là thay đổi đến từ phía Luật Kinh doanh bảo hiểm, đối với trách nhiệm của ngân hàng thì Luật Các tổ chức tín dụng hiện hành vẫn chưa có quy định cụ thể về trách nhiệm của phía ngân hàng trong hoạt động Bancassurance. Luật mới chỉ quy định về phạm vi các hoạt động bảo hiểm mà ngân hàng được phép cung cấp, ngoài ra chưa có bất cứ quy định nào liên quan đến trách nhiệm của ngân hàng và yêu cầu về điều kiện, trình độ mà nhân viên ngân hàng cần đáp ứng khi thực hiện việc tư vấn bán bảo hiểm cho khách hàng. Như vậy, Dự thảo Luật Các tổ chức tín dụng đang trong giai đoạn xây dựng, sửa đổi sẽ cần bổ sung thêm các quy định ràng buộc trách nhiệm của phía ngân hàng trong hoạt động Bancassurance để đảm bảo sự đồng bộ trong hệ thống văn bản quy phạm pháp luật để xây dựng môi trường lành mạnh trong kinh doanh bảo hiểm tại các hệ thống ngân hàng và góp phẩn bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp và xây dựng, củng cố niềm tin của cộng đồng, xã hội đối với hoạt động này.

Trên đây là bài viết về chủ đề: “Những nguyên nhân dẫn đến biến tướng trong hoạt động Bancassurance tại Việt Nam” của luật sư TNTP. Mong rằng bài viết này cung cấp những thông tin hữu ích đến các độc giả.

Trân trọng,

Biến tướng trong hoạt động Bancassurance tại Việt Nam hiện nay

Hoạt động Bancassurance tại Việt Nam hiện nay đang ngày một phát triển mạnh và đã trở thành nguồn thu chủ yếu của nhiều ngân hàng lớn tại Việt Nam. Tuy nhiên trong thời gian gần đây, hoạt động Bancassurance đang phát sinh nhiều vấn đề gây thiệt hại tới khách hàng mua bảo hiêm, cụ thể là việc nhiều nhân viên bán bảo hiểm xúi giục, đưa ra thông tin không đầy đủ để gây niềm tin với khách hàng ký hợp đồng. Liệu Bancassurance tại Việt Nam có đang phát sinh những biến tướng xấu hay không? Hãy cùng luật sư của TNTP tìm hiểu về vấn đề này trong bài viết sau.

1. Hoạt động Bancassurance là gì?

Bancassurance là thuật ngữ kết hợp của: “Banking” (Ngân hàng) và “Assurance”(Bảo hiểm). Đây là hoạt động kinh doanh hợp tác giữa công ty bảo hiểm và một ngân hàng mà mục tiêu tạo ra một kênh phân phối sản phẩm dịch vụ chung giữa hai dịch vụ bảo hiểm và ngân hàng cho khách hàng. Hiện tại ở Việt Nam, các ngân hàng tham gia Bancassurance thay vì chỉ cung cấp các sản phẩm và dịch vụ ngân hàng truyền thống như tiết kiệm, tín dụng và quản lý tài sản, ngân hàng cũng cung cấp các sản phẩm bảo hiểm như bảo hiểm nhân thọ, bảo hiểm sức khỏe, bảo hiểm ô tô và nhiều loại bảo hiểm khác mà phía công ty bảo hiểm đối tác của ngân hàng cung cấp dịch vụ.

2. Bản chất của Bancassurance

Bancassurance mang lại lợi ích cho cả ngân hàng và công ty bảo hiểm. Đối với ngân hàng, dịch vụ này cung cấp một nguồn thu tương đối lớn và thu hút khách hàng mới thông qua dịch vụ bảo hiểm. Đồng thời, tăng cường sự liên kết giữa ngân hàng với các khách hàng hiện tại do ngân hàng vừa có thể đồng thời cung cấp các dịch vụ tài chính đồng thời với các dịch vụ bảo hiểm đa dạng. Còn đối với các công ty bảo hiểm, Bancassurance mở rộng phạm vi tiếp cận khách hàng và giúp tăng doanh số bán bảo hiểm, đồng thời các công ty bảo hiểm có khả năng tiếp cận khách hàng của ngân hàng để tiếp cận thị trường và cung cấp các sản phẩm bảo hiểm cho khách hàng ngân hàng.

Không thể không nói đến giá trị của Bancassurance với các khách hàng có nhu cầu sử dụng dịch vụ. Khách hàng có thể tiếp cận dễ dàng dịch vụ của ngân hàng và dịch vụ bảo hiểm trong một nơi duy nhất, tiết kiệm thời gian và công sức trong việc tìm hiểu và mua các sản phẩm tài chính khác nhau. Quan trọng hơn, khách hàng có thể nhận được các ưu đãi đặc biệt khi sử dụng dịch vụ Bancassurance giữa các ngân hàng và công ty bảo hiểm có sự liên kết với nhau.

Như vậy, bản chất của Bancassurance không phải xấu, tuy nhiên hiện nay bắt đầu phát sinh các biến tướng từ việc Bancassurance gây ra nhiều bức xúc, thậm chí phẫn nộ của khách hàng với dịch vụ này.
3. Biến tướng trong hoạt động Bancassurance tại Việt Nam

a) Nhân viên tư vấn bất chấp để khách hàng ký hợp đồng

Do áp lực từ doanh số bán bảo hiểm, cũng như mức hoa hồng cao, các nhân viên bán bảo hiểm thường bất chấp mọi hình thức, phương pháp để “dụ” khách hàng ký hợp đồng. Nhiều trường hợp nhân viên tư vấn chỉ đưa ra các thông tin có lợi, các chính sách hấp dẫn và sẵn sàng bỏ qua các điều khoản thanh toán hoặc ràng buộc đơn phương chấm dứt hợp đồng gây bất lợi. Hơn nữa các hợp đồng bảo hiểm có lượng nội dung khổng lồ có thể lên đến hàng trăm trang khiến khách hàng khó có thể kiểm tra toàn bộ nội dung mà chỉ có thể đặt niềm tin vào những lời tư vấn của nhân viên bảo hiểm. Điều này càng khiến các khách hàng chịu rủi ro nếu nhân viên tư vấn “không có tâm”.

Ngoài ra, nhiều trường hợp các gói bảo hiểm được tích hợp thêm các dịch vụ không cần thiết với nhu cầu của khách hàng lại được “lồng ghép” trong các nội dung của Hợp đồng, các nhân viên bảo hiểm có thể giấu đi các thông tin này khiến khách hàng không hay biết. Chỉ khi đến hạn thanh toán, khách hàng mới phát hiện ra do số tiền đóng bảo hiểm cao bất thường, khi đó việc chấm dứt các gói bảo hiểm không phù hợp sẽ bị ràng buộc bởi các điều khoản của Hợp đồng. Khách hàng khi đó mặc dù rất bức xúc nhưng do đã ký vào nội dung hợp đồng bảo hiểm nên sẽ rất khó khăn để có thể bảo vệ quyền lợi của mình.

b) Gửi tiết kiệm ngân hàng bị chuyển thành bảo hiểm nhân thọ

Trong vài tháng gần đây, rất nhiều trường hợp khách hàng gửi tiết kiệm ngân hàng nhưng sau đó được tư vấn mua gói sản phẩm là sản phẩm liên kết giữa ngân hàng và công ty bảo hiểm. Nhân viên ngân hàng tư vấn cho khách hàng đây là gói tiết kiệm đầu tư có lãi suất cao và có tặng kèm bảo hiểm nhân thọ. Khách hàng đã tin lời tư vấn và chỉ cho rằng gói bảo hiểm nhân thọ là được tặng kèm theo dịch vụ chính họ giao kết là dịch vụ gửi tiết kiệm, tuy nhiên sau khi ký Hợp đồng, khách hàng mời phát hiện ra bản chất hợp đồng có nội dung khác hoàn toàn so với nội dung được tư vấn và có nhiều nội dung vô cùng bất lợi.

Cụ thể, nhân viên ngân hàng đã tư vấn sai sự thật, dánh trái khái niệm khiến khách hàng hiểu nhầm về dịch vụ mình giao kết. Khách hàng nghĩ rằng mình đang gửi tiết kiệm nhưng thực chất là đang tham gia bảo hiểm, và nếu khách hàng quyết định chấm dứt hợp đồng, không tiếp tục đóng phí thì họ sẽ bị mất toàn bộ số tiền đã “gửi tiết kiệm” trước đó, tuy nhiên thời gian khách hàng phải tiếp tục tham gia bảo hiểm sẽ kéo dài từ vài năm đến vài chục năm tùy thuộc vào nội dung hợp đồng.

Theo quy định của pháp luật, hành vi cố ý đưa ra thông tin sai sự thật để khách hàng tin tưởng giao kết hợp đồng có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội Lạm dúng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản theo quy định tại Bộ luật hình sự. Do đó, tùy vào mức độ vi phạm mà các đối tượng thực hiện hành vi này có thể bị áp dụng hình thức phạt từ từ 06 tháng, 03 năm cho đến 20 năm tù.

Trên đây là bài viết của luật sư TNTP về chủ đề: “Biến tướng trong hoạt động Bancassurance tại Việt Nam hiện nay”. Mong rằng bài viết này sẽ đem lại giá trị cho các độc giả.

Trân trọng,

Những bất cập từ hoạt động Bancassurance tại Việt Nam hiện nay

Thời gian gần đây, hàng loạt những vụ việc liên quan đến những kênh phân phối bảo hiểm thông qua ngân hàng (Bancassurance) có những biểu hiện áp buộc, lừa dối khách hàng tham gia mua bảo hiểm nhân thọ đang ngày càng nhận được sự chú ý của các phương tiện truyền thông và những cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Trong bài viết này, luật sư của TNTP sẽ đưa ra góc nhìn của mình về những bất cập từ hoạt động Bancassurance tại Việt Nam hiện nay.

1. Hoạt động Bancassurance là gì?

Bancassurance là thuật ngữ kết hợp của từ: “Banking” (Ngân hàng) và “Assurance”(Bảo hiểm). Đây là hoạt động kinh doanh hợp tác giữa công ty bảo hiểm và một ngân hàng mà mục tiêu tạo ra một kênh phân phối sản phẩm dịch vụ chung giữa hai dịch vụ bảo hiểm và ngân hàng cho khách hàng. Hiện tại ở Việt Nam, hoạt động Bancassurance thường được hiểu đơn gian là việc các ngân hàng ngoài hoạt động cho vay và cho gửi tiết kiệm còn tiến hành tư vấn và bán bảo hiểm cho khách hàng.

2. Hoạt động Bancassurance tại Việt Nam

Bancassurance đã có mặt tại Việt Nam từ đầu những năm 90 của thế kỷ XX, hiện nay thị trường bảo hiểm nhân thọ tại Việt Nam đã phát triển rất sôi động với hàng loạt những thương hiệu lớn như Bảo Việt Nhân thọ; Prudential; Manulife; AIA,… với doanh thu hàng chục nghìn tỷ đồng mỗi năm.

Tuy hoạt động bảo hiểm nhân thọ hiện nay đem lại nguồn thu lớn cho nhân sách và đáp ứng nhu cầu không nhỏ của xã hội, tuy nhiên thời điểm gần đây hoạt động Bancassurance đang phát sinh nhiều bất cập ảnh hưởng đến trật tự xã hội và niềm tin của các khách hàng với dịch vụ bảo hiểm. Cụ thể:

a) Nhân viên ngân hàng ép khách hàng mua bảo hiểm nhân thọ

Hiện nay, nhiều khách hàng tới các ngân hàng vay vốn, tuy nhiên khi lập hồ sơ thì các nhân viên ngân hàng đã gây khó dễ và đưa ra các tư vấn buộc khách hàng phải lựa chọn việc mua các gói bảo hiểm nhân thọ để được vay, hoặc nếu mua bảo hiểm sẽ được hưởng lãi suất thấp hơn,…

Ngoài ra, khi ngân hàng ép khách hàng mua bảo hiểm, nếu khách hàng hủy ngang sẽ bị áp dụng các điều khoản phạt hoặc tăng lãi suất gây ảnh hưởng đến lợi ích của khách hàng. Điều này khiến nhiều khách hàng ngậm ngùi tiếp tục đóng phí bảo hiểm hằng năm, mặc dù có thể họ không thực sự hiểu hoặc không thực sự cần mua bảo hiểm mà chỉ để việc vay vốn của mình được thuận lợi hơn.

b) Ngân hàng tư vấn bảo hiểm không rõ ràng nhằm tạo niềm tin cho khách hàng ký hợp đồng bảo hiểm

Nhiều trường hợp khách hàng vay vốn bị ngân hàng tư vấn đưa ra những thông tin hấp dẫn như lãi suất bảo hiểm cao hơn so với lãi suất ngân hàng để “mời chào” khách hàng tiến hành mua thêm các gói bảo hiểm không thực sự cần thiết hoặc không phù hợp với khách hàng, hoặc thậm chí nhân viên ngân hàng cố tình tư vấn để khách hàng hiểu nhầm bản chất của hoạt động bảo hiểm và cho rằng mình đang tiến hành đầu tư thông qua việc mua gói bảo hiểm nhân thọ.

Hậu quả là sau một khoảng thời gian nhân viên ngân hàng cam kết sẽ có lời hoặc đủ điều kiện được rút tiền “lợi nhuận” bảo hiểm nhưng sau đó khách hàng phát hiển ra ngân hàng không có các chính sách như vậy, hoặc nội dung của các điều khoản theo cam kết của ngân hàng yêu cầu thêm các điều kiện khác để đáp ứng trước khi khách hàng có thể được nhận khoản “lợi nhuận” thì người mua mới nhận ra mình đã bị nhân viên tư vấn “lừa” ký bảo hiểm với hàng loạt những ràng buộc mà không thể được chấm dứt dễ dàng. Trong trường hợp nếu khách hàng vẫn kiên quyết muốn chấm dứt hợp đồng bảo hiểm cũng sẽ không thể lấy lại được số tiền phí bảo hiểm đã nộp, ngược lại khách hàng còn có thể bị phạt vì đơn phương chấm dứt hợp đồng trước thời hạn.

Có thể thấy với hàng loạt các vụ việc liên quan đến Bancassurance, nhiều khách hàng đã dần mất niềm tin đối với hoạt động này, tuy nhiên các cơ quan nhà nước có thẩm quyền như Ngân hàng Nhà nước; Thanh tra các Bộ, Ban, Ngành và Bộ Tài chính cũng đã tiến hành các biện pháp cần thiết để thanh tra, xử lý các hành vi vi phạm để bảo đảm trật tự xã hội cũng như hoạt động của ngành ngân hàng và bảo hiểm hiện nay.

Trên đây là bài viết của TNTP về: “ Những bất cập từ hoạt động Bancassurance tại Việt Nam hiện nay”. Mong rằng bài viết này có ích với các độc giả.

Trân trọng,

 

Rủi ro nợ xấu cho khách hàng khi giao kết Hợp đồng bảo hiểm nhân thọ

Bảo hiểm nhân thọ là một dịch vụ mang lại nhiều giá trị, đảm bảo cho sức khỏe, tính mạng, sức khỏe của người tham gia được hệ thống bảo hiểm đảm bảo một phần rủi ro, và cũng mang ý nghĩa tích lũy một phần nhỏ tài sản cho tương lai sau này. Tuy nhiên hiện nay nhiều loại hình dịch vụ bảo hiểm đang phát sinh những vấn đề dẫn đến việc khách hàng có thể phát sinh những khoản nợ không lường trước. Sau đây, luật sư của TNTP sẽ phân tích những rủi ro nợ xấu khách hàng có thể gặp khi giao kết Hợp đồng bảo hiểm nhân thọ.

1. Người mua không hiểu toàn bộ nội dung của Hợp đồng

Khi được các nhân viên bảo hiểm tư vấn các gói bảo hiểm, người mua thường chọn gói bảo hiểm theo tư vấn của các nhân viên bảo hiểm mà rất ít khi tự kiểm tra từng nội dung Hợp đồng. Khi đó, người mua đã tự đặt mình vào hoàn cảnh rủi ro khi dễ dàng đặt bút ký kết một hợp đồng mà mình chưa hiểu toàn bộ nội dung, với những điều khoản ràng buộc, điều khoản phạt vi phạm nếu khách hàng muốn hủy ngang hợp đồng.

Thực tế cho thấy các Hợp đồng bảo hiểm nhân thọ thường có số lượng nội dung rất lớn, từ vài chục đến vài trăm trang khiến khách hàng không thể có đủ thời gian và kiên nhẫn để đọc từng điều, khoản. Chính điều này khiến các khách hàng không hiểu rõ về nội dung hợp đồng và có thể nảy sinh nhiều rủi ro sau này, hất là khi khách hàng chỉ biết lựa chọn gói bảo hiểm theo tư vấn của các nhân viên.

2. Nhân viên bán bảo hiểm khiến khách hàng hiểu nhầm

Chính vì nội dung Hợp đồng bảo hiểm rất dài nên khách hàng chỉ có thể đặt niềm tin vào các nhân viên bảo hiểm, những người được đào tạo chuyên nghiệp và có thể xác định rõ yêu cầu của khách hàng để lựa chọn gói bảo hiểm phù hợp nhất với họ. Tuy nhiên, với hoạt động Bancassurance (Phân phối bảo hiểm qua ngân hàng), rất nhiều nhân viên ngân hàng với kiến thức chuyên môn không cao do chỉ được đào tạo cấp tốc qua vài khóa học khi giới thiệu các gói bảo hiểm đã tư vấn không đầy đủ khiến khách hàng hiểu nhầm về những lợi ích mình được hưởng, cũng như mức đóng bảo hiểm hàng tháng. Điều này có thể dẫn đến việc khách hàng phải giao kết một hợp đồng bảo hiểm không phù hợp, với những điều khoản không thực sự cần thiết nhưng lại tốn kém rất nhiều chi phí của khách hàng. Điều này vô hình chung đã đẩy khách hàng vào tình thế bất lợi, phải đóng những khoản phí bảo hiểm cao bất ngờ so với những nội dung họ được nhân viên tư vấn.

Ngoài ra, thực tế hiện nay cho thấy nhiều trường hợp do áp lực doanh số bán bảo hiểm ngày càng cao, các nhân viên ngân hàng thực hiện hoạt động Bancassurance chỉ đưa ra các điều khoản, nội dung có lợi cho khách hàng và cố tình giấu đi các thông tin bất lợi, rủi ro của khách hàng khi giao kết nhằm mục đích khiến khách hàng giao kết hợp đồng. Khi đó, khách hàng sẽ là người chịu rủi ro nhất với những lời tư vấn có cánh của các nhân viên bán bảo hiểm. Điều này khiến niềm tin của khách hàng đối với ngân hàng và các công ty bảo hiểm ngày càng giảm sút nghiêm trọng.

3. Khách hàng không còn đủ khả năng tham gia đóng bảo hiểm

Vì nhiều lý do khác nhau, trong quá trình tham gia bảo hiểm nhân thọ, khách hàng có thể không còn khả năng chi trả các khoản phí bảo hiểm, điều này dẫn đến việc khách hàng trở thành một bên nợ và có thể phải chịu các chế tài phạt hoặc lãi suất của Hợp đồng bảo hiểm. Khi khách hàng đã lâm vào tình trạng nợ xấu bảo hiểm thì sẽ bị công ty bảo hiểm tiến hành các biện pháp để thu hồi nợ, gây ảnh hưởng không nhỏ đến chất lượng cuộc sống của khách hàng.

Tuy nhiên, theo quy định mới tại Điều 26 và Điều 27 Luật kinh doanh bảo hiểm 2022 có hiệu lực từ ngày 01/01/2023, trường hợp khách hàng không còn đủ khả năng trả phí bảo hiểm thì có thể đơn phương chấm dứt hợp đồng bảo hiểm, khi đó công ty bảo hiểm nhân thọ sẽ có trách nhiệm trả tiền bảo hiểm cho khách hàng trước thời điểm đơn phương chấm dứt thực hiện hợp đồng bảo hiểm và có quyền khấu trừ phí bảo hiểm đến thời điểm đơn phương chấm dứt thực hiện hợp đồng bảo hiểm. Như vậy, quy định này đã hạn chế rủi ro cho khách hàng trong trường hợp không còn khả năng tham gia đóng bảo hiểm. Tuy nhiên, nếu Hợp đồng bảo hiểm của khách hàng được giao kết trước thời điểm Luật kinh doanh bảo hiểm 2022 có hiệu lực thì khách hàng vẫn phải thực hiện các nội dung thanh toán đã cam kết trước đó.

Trên đây là bài viết của luật sư TNTP về chủ đề: “ Rủi ro nợ xấu cho khách hàng khi giao kết Hợp đồng bảo hiểm nhân thọ”. Mong rằng bài viết này đem lại giá trị cho các độc giả.

Trân trọng,

Cách doanh nghiệp phòng tránh phát sinh nợ xấu trong tương lai

Hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp dù khác nhau về mục tiêu và ngành nghề nhưng hầu như luôn có chung mục đích là tìm kiếm lợi nhuận để sinh lời. Một trong những nguyên nhân chính khiến dòng tiền của doanh nghiệp bị thâm hụt và giảm thiểu lợi nhuận là việc bị phát sinh các khoản nợ xấu Trong bài viết này, luật sư của TNTP sẽ đưa ra kinh nghiệm để doanh nghiệp phòng tránh phát sinh công nợ trong tương lai.

1. Phân loại và quản lý các khoản nợ tiềm tàng

Một trong những điều đầu tiên mà doanh nghiệp cần lưu ý để tránh phát sinh công nợ trong tương lai là phải có sự đánh giá, phân loại và quản lý các khoản nợ tiềm tàng đã và sẽ phát sinh từ các đối tác. Việc phân loại có thể dựa trên nhiều tiêu chí khác nhau, nhưng cơ bản và quan trọng nhất là Thời gian phát sinh khoản nợ và Giá trị của khoản nợ.

Thời gian phát sinh khoản nợ sẽ ảnh hưởng rất lớn đến khả năng thành công của quá trình thu hồi công nợ, vì các bên nợ thường có xu hướng “trốn” các khoản nợ đã có thời gian phát sinh từ lâu nhưng không được chủ nợ “nhắc nhở”. Thời gian khoản nợ càng lâu thì càng khó thu hồi, một phần do tâm lý bên nợ sẽ chỉ ưu tiên thanh toán các khoản nợ của các bên nợ gây áp lực lớn nhất với họ

Về giá trị khoản nợ, doanh nghiệp cần ưu tiên thu hồi các khoản nợ lớn trước vì thời gian để thu hồi toàn bộ với các khoản nợ này sẽ kéo dài, và còn để tránh việc các bên nợ không còn khả năng thanh toán sẽ khiến doanh nghiệp bị thâm hụt các khoản chi phí lớn hơn. Đối với các khoản nợ nhỏ hơn, doanh nghiệp có thể xem xét tiến hành yêu cầu thanh toán bằng các biện pháp nhắc nhở, gửi công văn trước khi tiến hành các biện pháp thu hồi nợ gây áp lực.

Một khi đã có một danh sách các bên nợ cần thiết và mức độ ưu tiên, doanh nghiệp sẽ dễ dàng đưa ra quyết định về lộ trình thu hồi công nợ và phòng tránh được việc bỏ sót hay tính toán sai khoản nợ trước khi tiến hành các biện pháp pháp lý cần thiết. Việc phân loại và quản lý khoản nợ tiềm tàng là giai đoạn quan trọng để doanh nghiệp hạn chế việc phát sinh công nợ trong tương lai, và cũng là giai đoạn chuẩn bị cho quá trình thu hồi nợ đối với các khoản nợ sẽ phát sinh và không thể tránh khỏi.

2. Tiến hành việc yêu cầu thanh toán và đối chiếu công nợ định kỳ, thường xuyên

Trước khi một khoản nợ thông thường trở thành nợ xấu, doanh nghiệp cần lưu ý phải thường xuyên nhắc nhở các bên nợ thanh toán định kỳ. Việc thường xuyên liên hệ và nhắc nhở định kỳ sẽ giúp doanh nghiệp theo dõi sát sao quá trình thanh toán của bên nợ, trong trường hợp bên nợ có vấn đề khi thanh toán hoặc phát sinh khó khăn trong trả nợ thì doanh nghiệp có thể biết và chuẩn bị cho các biện pháp thu hồi nợ phù hợp.

Ngoài việc đôn đốc, nhắc nhở, nếu doanh nghiệp có thể yêu cầu bên nợ ký xác nhận vào Biên bản đối chiếu công nợ sẽ giúp doanh nghiệp theo dõi sát quá trình thanh toán và giá trị khoản nợ. Ngoài ra, Đối chiếu công nợ là văn bản có giá trị rất lớn trong việc chứng minh yêu cầu của doanh nghiệp nếu doanh nghiệp quyết định tiến hành biện pháp khởi kiện bên nợ tại cơ quan có thẩm quyền giải quyết tranh chấp. Vì với căn cứ rõ ràng và xác thực từ bên nợ thì các cơ quan giải quyết tranh chấp sẽ có đủ căn cứ để xem xét chấp nhận yêu cầu khởi kiện của doanh nghiệp.

3. Sử dụng dịch vụ tư vấn chuyên nghiệp

Nhiều doanh nghiệp cho rằng các công ty thu hồi nợ chuyên nghiệp như công ty luật chỉ có kinh nghiệm trong việc giải quyết tranh chấp và thu hồi công nợ. Tuy nhiên trên thực tế, các công ty luật còn cung cấp dịch vụ tư vấn pháp lý thường xuyên để giúp các doanh nghiệp phòng tránh các rủi ro trong quá trình hoạt động, trong đó bao gồm hoạt động tư vấn phòng ngừa rủi ro nợ xấu cho doanh nghiệp.

Hoạt động tư vấn phòng ngừa rủi ro nợ xấu của các doanh nghiệp được tiến hành bởi các luật sư và đội ngũ chuyên viên pháp lý có kinh nghiệm trong việc xác định các rủi ro và nợ xấu tiềm tàng trong hoạt động của các doanh nghiệp. Dịch vụ này thường được tiến hành bởi các hoạt động đánh giá tài chính của các doanh nghiệp, kiểm tra số liệu sổ sách để xác định các khoản nợ cần ưu tiên thu hồi. Kiểm tra các tài liệu quan trọng để đảm bảo quá trình phòng ngừa và chuẩn bị cho việc thu hồi công nợ nếu có phát sinh,…

Các công ty luật có kinh nghiệm trong việc thu hồi nợ lâu năm sẽ có đánh giá chuyên nghiệp hơn đội ngũ nhân viên của các doanh nghiệp vốn không có nhiều kinh nghiệm trong hoạt động thu hồi công nợ, do đó sẽ nâng cao khả năng phòng ngừa nợ xấu có thể phát sinh trong hoạt động của các doanh nghiệp.

Trên đây là bài viết của luật sư TNTP về chủ đề: “Cách doanh nghiệp phòng tránh phát sinh nợ xấu trong tương lai”. Mong rằng bài viết trên sẽ cung cấp cho doanh nghiệp kiến thức hữu ích trong quá trình hoạt động của mình.

Trân trọng,

Nguyên nhân gây phát sinh công nợ

Trong hoạt động kinh doanh hiện nay, một trong những nguyên nhân chính dẫn đến việc doanh nghiệp khó kiểm soát dòng tiền và ảnh hưởng đến lợi nhuận là việc phát sinh công nợ. Vậy đâu là những nguyên nhân gây phát sinh công nợ thường gặp? Trong bài viết này, luật sư của TNTP sẽ đưa ra quan điểm về những nguyên nhân gây phát sinh công nợ để bạn đọc có thêm một góc nhìn về vấn đề này.

1. Khả năng kiểm soát tài chính không hiệu quả

Một trong những nguyên nhân quan trọng nhất dẫn đến phát sinh công nợ là việc doanh nghiệp không có khả năng kiểm soát tài chính hiệu quả. Việc kiểm soát không hiệu quả thể hiện ở việc không có quy trình kiểm soát hoặc quá trình kiểm soát tài chính không rõ ràng, cụ thể, minh bạch và gây lãng phí nguồn tiền của doanh nghiệp. Nếu quá trình kiểm soát tài chính không hiệu quả kéo dài sẽ dẫn đến việc thiếu vốn để phát triển kinh doanh, làm giảm khả năng cạnh tranh, thậm chí làm thâm hụt dòng tiền và ảnh hưởng trực tiếp đến quá trình hoạt động của doanh nghiệp.

Hơn hết, việc kiểm soát tài chính không hiệu quả ảnh hưởng lớn đến việc phát sinh công nợ vì khi đó doanh nghiệp không thể kiểm soát hay phòng ngừa các khoản công nợ có thể phát sinh với các đối tác. Điều này sẽ càng trở thành gánh nặng cho doanh nghiệp theo thời gian vì khi không còn kiểm soát và hạn chế công nợ thì các khoản công nợ sẽ ngày càng nhiều và với số lượng lớn dần theo thời gian, kèm theo là thâm hụt vốn do kiểm soát tài chính không hiệu quả trong nội bộ doanh nghiệp có thể đẩy doanh nghiệp vào trạng thái mất khả năng kiểm soát tài chính, thậm chí khiến doanh nghiệp mất khả năng thanh toán và phải ngừng hoạt động.

2.Lợi nhuận không đủ so với chi phí đã bỏ ra

Mục tiêu chính trong hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp là lợi nhuận, tuy nhiên vì nhiều lý do mà việc kinh doanh của doanh nghiệp không hiệu quả dẫn đến lợi nhuận thấp. Cụ thể là một số nguyên nhân sau:

a) Chi phí đầu vào cao

Việc doanh nghiệp cung cấp dịch vụ, sản phẩm cần bỏ ra các chi phí đầu vào, tuy nhiên tùy từng thời điểm và các nhà cung cấp khác nhau, cũng như nhu cầu của thị trường mà chi phí đầu vào có thể thay đổi. Trong trường hợp doanh nghiệp bỏ ra chi phí đầu vào cao hơn so với lợi nhuận thu được thì sẽ không đủ để bù đắp cho vốn bỏ ra, và có thể gây phát sinh công nợ nếu nguồn của chi phí đầu vào là tiền đi vay.

b) Chất lượng sản phấm/ dịch vụ đầu ra không đáp ứng được nhu cầu của thị trường:

Trong hoạt động kinh doanh nói chung luôn tồn tại sự đào thải liên tục và khắc nghiệt theo thời gian, nếu doanh nghiệp không thể cung cấp sản phẩm/ dịch vụ với chất lượng đáp ứng được nhu cầu của thị trường thì sẽ dần mất đi khách hàng. Ngoài ra việc xác định sai phân khúc khách hàng, lượng khách hàng cũng như khả năng đáp ứng của doanh nghiệp cũng sẽ dẫn đến việc doanh nghiệp không thể cung cấp được sản phẩm/dịch vụ phù hợp. Nếu doanh nghiệp liên tục không thể đáp ứng được nhu cầu của thị trường thì việc phát sinh công nợ sẽ chỉ là vấn đề thời gian, vì khi đã không thể đáp ứng được nhu cầu của thị trường, lợi nhuận sẽ ngày càng giảm và đến một thời điểm thì doanh nghiệp sẽ không thể tiếp tục kinh doanh vì lợi nhuận không thể bù đắp được vốn bỏ ra.

3. Không có khả năng thu hồi công nợ hiệu quả

Một trong những nguyên nhân rất quan trọng dẫn đến việc doanh nghiệp phát sinh công nợ là lời nhuận không bù đắp được các chi phí bỏ ra trong hoạt động kinh doanh, ngoài các nguyên nhân do hoạt động kinh doanh không hiệu quả, không quản trị vốn hiệu quả thì việc doanh nghiệp không có khả năng thu hồi công nợ từ các đối tác chưa thanh toán cũng là nguyên nhân hàng đầu khiến doanh nghiệp dễ phát sinh công nợ.

Có nhiều nguyên nhân dẫn đến việc doanh nghiệp không có khả năng thu hồi công nợ hiệu quả, cụ thể:

a) Đội ngũ thu hồi công nợ không hiệu quả

Để thu hồi công nợ hiệu quả thì những nhân viên phụ trách việc thu hồi nợ của doanh nghiệp cần trang bị những kiến thức cần thiết và phải có kinh nghiệm để xử lý các khoản nợ. Trong trường hợp những nhân viên này không được trang bị kiến thức chuyên môn về thu hồi nợ hiệu quả sẽ dấn đến khó thu hồi nợ, thậm chí trường hợp nhân viên thu hồi nợ thiếu hiểu biết pháp luật có thể tiến hành các hoạt động thu hồi nợ trái pháp luật gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến lợi ích doanh nghiệp hoặc thậm chí cấu thành các tội phạm theo quy định tại Bộ luật hình sự.

b) Doanh nghiệp để khoản nợ kéo dài

Công nợ càng có thời gian phát sinh lâu thì càng khó có khả năng thu hồi, khi đó bên nợ sẽ thường có xu hướng trốn tránh thanh toán nhằm chiếm dụng vốn lâu nhất có thể. Việc càng để bên nợ kéo dài thời gian cũng khiến rủi ro cho doanh nghiệp vì một khi bên nợ có quá nhiều khoản nợ thì có thể lâm vào tình trạng mất khả năng thanh toán. Khi bên nợ đã mất khả năng thanh toán thì khả năng thu hồi nợ sẽ rất khó khăn, thậm chí tốn kém thêm các chi phí khác mà không đảm bảo được việc sẽ thu hồi lại được toàn bộ khoản nợ.

Trên đây là bài viết về chủ đề: “Nguyên nhân gây phát sinh công nợ” dựa trên các kinh nghiệm làm việc của luật sư TNTP. Mong rằng bài viết này sẽ đem lại lợi ích cho quá trình hoạt động của các doanh nghiệp.

Trân trọng,

Công ty Luật TNHH Quốc Tế TNTP và Các Cộng Sự

  • Văn phòng tại Hồ Chí Minh:
    Phòng 1901, Tầng 19 Tòa nhà Saigon Trade Center, 37 Tôn Đức Thắng, Phường Bến Nghé, Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh
  • Văn phòng tại Hà Nội:
    Số 2, Ngõ 308 Tây Sơn, Phường Thịnh Quang, Quận Đống Đa, Hà Nội
  • Email: ha.nguyen@tntplaw.com


    Bản quyền thuộc về: Công ty Luật TNHH Quốc Tế TNTP và Các Cộng Sự