Skip to main content

Author: Phạm Huyền

Bình luận án lệ 12/2017/AL (Do Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao thông qua ngày 14/12/2017 và được công bố theo Quyết định số 299/QĐ-CA ngày 28/12/2017 của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao)

Trong quá trình thực hiện thủ tục tố tụng tại Tòa án, việc tuân thủ các quy định về thủ tục tố tụng tại Bộ luật Tố tụng Dân sự 2015 là rất quan trọng không chỉ đối với Tòa án mà còn đối với người tham gia tố tụng như nguyên đơn, bị đơn, người có nghĩa vụ liên quan. Đối với các đương sự, việc chủ động nắm bắt và tự nguyện thực thi pháp luật tố tụng là vô cùng cần thiết trong một xã hội văn minh, đồng thời thông qua việc tuân thủ thủ tục tố tụng, đương sự có thể tự bảo vệ quyền lợi của chính mình. Thông qua Án lệ số 12/2017/AL, TNTP xin chia sẻ những bình luận xoay quanh việc xác định trường hợp đương sự được triệu tập hợp lệ lần thứ nhất sau khi Tòa án đã hoãn phiên tòa trong thủ tục tố tụng.

TÓM TẮT ÁN LỆ

  1. Công ty Cổ phần Q (“Công ty Q”) và Công ty TNHH T (“Công ty T”) đã ký kết hai (02) Hợp đồng mua bán cây giống cao su, theo đó tổng số lượng cây mà Công ty T đồng ý bán và Công ty Q đồng ý mua là 400.000 cây cao su giống bầu hai tầng lá có giá trị 2.800.000.000 Kíp Lào.
  2. Công ty Q cho rằng trong quá trình thực hiện hợp đồng, ngoài việc không thực hiện đúng hợp đồng, Công ty T còn mượn một số lượng cây Stump trần của Công ty Q và mượn các loại vật tư, phân bón của Công ty Q. Tại phiên tòa, Công ty Q đề nghị Công ty T thanh toán số tiền là 1.720.888.500 đồng (bao gồm số tiền bồi thường thiệt hại do vi phạm nghĩa vụ thực hiện hợp đồng, số tiền phạt vi phạm, số tiền cây giống Stump trần đã mượn, số tiền vật tư đã mượn từ Công ty Q).
  3. Công ty T cho rằng trong quá trình thực hiện hợp đồng, Công ty T đã thực hiện đúng hợp đồng, nhưng khi đến thời hạn giao cây thì Công ty Q trì hoãn không nhận cây do không đủ công nhân, chưa có phương tiện vận chuyển cây dẫn đến bị chết cây. Tại phiên tòa, Công ty T đề nghị Công ty Q thanh toán số tiền là 4.967.026.000 đồng (bao gồm giá trị 400.000 cây giống đã thực hiện theo hợp đồng, giá trị vườn gỗ nhân, giá trị các bầu đất). Đối với các cây Công ty T đã mượn, Công ty T đồng ý hoàn trả số cây còn lại bằng hiện vật, không chấp nhận trả bằng tiền.
  4. Tại phiên tòa sơ thẩm, Tòa án Nhân dân tỉnh Quảng Trị ra Bản án Kinh doanh Thương mại sơ thẩm số 08/2013/KDTM-ST ngày 04/9/2013 (“Bản án sơ thẩm”), theo đó không chấp nhận yêu cầu của Công ty T. Công ty T có Đơn kháng cáo toàn bộ Bản án sơ thẩm, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Quảng trị có Quyết định kháng nghị Bản án sơ thẩm, tuy nhiên Tòa Phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại Đà Nẵng lại ra Quyết định có nội dung (i) Đình chỉ xét xử phúc thẩm đối với kháng cáo của Công ty T, (ii) Không chấp nhận kháng nghị của Viện trường Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Quảng Trị, (iii) Giữ nguyên Bản án sơ thẩm với lý do Công ty T – bị đơn và luật sư bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị đơn đã được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai vắng mặt tại phiên tòa.
  5. Công ty T tiếp tục có đơn đề nghị giám đốc thẩm đối với quyết định của Tòa phúc thẩm nêu trên. Hội đồng thẩm phán TAND tối cao xét xử theo thủ tục giám đốc thẩm tuyên (i) Chấp nhận Kháng nghị giám đốc thẩm của Chánh án Tòa án Nhân dân Tối cao, (ii) Hủy Bản án phúc thẩm của Tòa Phúc thẩm – Tòa án Nhân dân Tối cao và Bản án sơ thẩm của Tòa án Nhân dân tỉnh Quảng Trị, và (iii) Giao hồ sơ vụ án cho Tòa án Nhân dân tỉnh Quảng Trị xét xử lại theo đúng quy định của pháp luật.
  6. Theo đó, Hội đồng thẩm phán TAND tối cao nhận định: Theo Biên bản phiên tòa phúc thẩm ngày 26-11-2013 thì tại phiên tòa các đương sự có mặt đầy đủ theo giấy triệu tập của Tòa án. Tuy nhiên, Hội đồng xét xử đã quyết định hoãn phiên tòa đ các đương sự cung cấp thêm chứng cứ. Tại phiên tòa phúc thẩm được mở lại vào ngày 26-02-2014, bị đơn và luật sư bảo vệ quyền và lợi ích hp pháp của bị đơn vắng mặt. Trường hợp Hội đồng xét xử đã quyết định hoãn phiên tòa và việc hoãn phiên tòa là do Tòa án, tại phiên tòa được mở lại đương sự hoặc người đại diện, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự vắng mặt thì được coi là vắng mặt lần thứ nhất. Lẽ ra, Tòa án cấp phúc thẩm phải xác định là bị đơn và luật sư bảo vệ quyền và lợi ích hp pháp của bị đơn được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ nhất vắng mặt tại phiên tòa theo quy định tại khoản 1 Điều 199, khoản 2 Điều 266 Bộ luật Tố tụng dân sự để hoãn phiên tòa. Tòa án cấp phúc thẩm nhận định tại phiên tòa phúc thẩm bị đơn và luật sư bảo vệ quyền và lợi ích hp pháp của bị đơn đã được Tòa án triệu tập hợp llần thứ hai vắng mặt tại phiên tòa, từ đó đình chỉ xét xử phúc thẩm đối với yêu cầu kháng cáo của bị đơn là không đúng quy định tại Điều 199, 202, 266 Bộ luật Tố tụng dân sự, làm mất quyền kháng cáo, ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hp pháp của bị đơ

NHẬN XÉT ÁN LỆ

Dựa trên phần tóm tắt án lệ, TNTP có một vài ý kiến nhận xét như sau:

Khi Tòa án quyết định hoãn phiên tòa phúc thẩm, có hai (02) nguyên nhân chính đến từ (i) Tòa án – khi Tòa án quyết định chủ động hoãn phiên tòa vì lý do cụ thể, hoặc (ii) đương sự hoặc người đại diện, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự vắng mặt sau khi đã được Tòa án triệu tập hợp lệ.

Trường hợp 1: Nguyên nhân hoãn phiên tòa do Tòa án

Trong trường hợp này, Hội đồng xét xử có thể chủ động hoãn phiên tòa vì Tòa án chưa thu thập đầy đủ chứng cứ, hoặc đại diện Viện kiểm sát vắng mặt, hoặc do các nguyên nhân khác mà Tòa án đã nêu cụ thể trong quyết định hoãn phiên tòa. Do nguyên nhân hoãn phiên tòa là quyết định của Hội đồng xét xử, việc đương sư hoặc người đại diện, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của Đương sự vắng mặt trong phiên tòa này sẽ không được xem xét là vắng mặt lần thứ nhất.

Khi phiên tòa được mở lần thứ hai mà đương sự hoặc người đại diện, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự tiếp tục vắng mặt sau khi đã được Tòa án triệu tập hợp lệ thì được coi là vắng mặt lần thứ nhất.

Khi phiên tòa được mở lần thứ 3mà đương sự hoặc người đại diện, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự tiếp tục vắng mặt sau khi đã được Tòa án triệu tập hợp lệ thì được coi là vắng mặt lần thứ hai.

Trường hợp 2: Nguyên nhân hoãn phiên tòa do người kháng cáo hoặc người đại diện, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ vắng mặt sau khi đã được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ nhất

Trong trường hợp này, Tòa án hoãn phiên tòa do người kháng cáo hoặc người đại diện, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ vắng mặt sau khi đã được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ nhất. Vì vậy, sau khi phiên tòa được mở lần thứ hai, trường hợp người kháng cáo hoặc người đại diện, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ tiếp tục vắng mặt sau khi đã được Tòa án triệu tập hợp lệ sẽ được coi là vắng mặt lần thứ hai.

Về hậu quả pháp lý của việc người kháng cáo vắng mặt lần thứ hai sau khi được Tòa án triệu tập hợp lệ, căn cứ theo quy định tại Khoản 3 Điều 296 của Bộ luật Tố tụng Dân sự 2015, Tòa án sẽ coi người kháng cáo từ bỏ việc kháng cáo và Tòa án đình chỉ xét xử phúc thẩm với yêu cầu kháng cáo của người kháng cáo. Do đó, việc xác định người kháng cáo vắng mặt lần thứ nhất hay lần thứ hai sau khi đã được Tòa án triệu tập hợp lệ là rất quan trọng để tránh Tòa án đình chỉ xét xử phúc thẩm, và để xác định được việc này, cần xác định rõ nguyên nhân hoãn phiên tòa.

Như vậy, đây chính là quan điểm của Tòa án Nhân dân Tối cao về việc xác định trường hợp đương sự được triệu tập hợp lệ lần thứ nhất sau khi Tòa án đã hoãn phiên tòa.

ÁP DỤNG THỰC TẾ

Để áp dụng thực tế, TNTP có những khuyến cáo sau đối với đương sự, đặc biệt là người kháng cáo:

  • Khi được triệu tập hợp lệ bởi Tòa án, đương sự, đặc biệt là người kháng cáo hoặc người đại diện, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ cần sắp xếp tham gia phiên tòa phúc thẩm một cách đầy đủ và nghiêm túc, do chính bản thân mình là đối tượng kháng cáo, quyền lợi của đối tượng kháng cáo liên quan và phụ thuộc vào việc kháng cáo trong quá trình tố tụng. Ngay cả khi đương sự, người kháng cáo hoặc người đại diện, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ đã tham gia đầy đủ phiên tòa nhưng Tòa án quyết định hoãn phiên tòa, việc có mặt tại phiên tòa giúp chúng ta nắm bắt được nguyên nhân hoãn phiên tòa, tránh trường hợp vụ án bị đình chỉ như tại tình huống trên.
  • Trong các trường hợp tương tự khi đương sự, người kháng cáo, người bảo vệ quyền và lợi ích của người kháng cáo đã vắng mặt sau khi Tòa án đã triệu tập hợp lệ lần thứ hai và bị bác đơn kháng cáo trong trường hợp Hội đồng xét xử chủ động hoãn phiên tòa trong phiên tòa lần thứ nhất, Đương sự có thể căn cứ vào Án Lệ số 21/2018/AL để nộp đơn giám đốc thẩm nhằm chủ động bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình.

Trên đây là bài bình luận Án lệ số 21/2018/AL của TNTP. Hy vọng rằng bài viết này là hữu ích cho Quý độc giả.

Trân trọng.

Có thể bạn chưa đọc BÌNH LUẬN ÁN LỆ SỐ 20/2018/AL (Do Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao thông qua ngày 17/10/2018 được công bố theo Quyết định số 269/QĐ-CA ngày 06/11/2018 của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao)

Tham gia Fanpage Giải Quyết Tranh Chấp Và Thu Hồi Nợ để có thêm những kiến thức pháp lý bổ ích.

Công ty Luật TNHH Quốc tế TNTP và Các Cộng sự

Luật sư Nguyễn Thanh Hà

Email: ha.nguyen@tntplaw.com

Doanh nghiệp cần làm gì khi bị tòa trả lại đơn khởi kiện vì lý do không sửa đổi bổ sung nội dung đơn khởi kiện?

Trong quá trình giải quyết tranh chấp của các doanh nghiệp, không thể không nhắc tới giai đoạn khởi kiện tại Tòa án có thẩm quyền. Tuy nhiên quá trình nộp đơn khởi kiện tại Tòa có thể phát sinh nhiều trở ngại, không ít trường hợp các doanh nghiệp đã nộp hồ sơ khởi kiện nhưng lại bị Tòa trả lại đơn vì lý do không sửa đổi, bổ sung nội dung đơn kiện trong thời hạn Tòa án yêu cầu. Trong bài viết “Doanh nghiệp cần làm gì khi bị tòa trả lại đơn khởi kiện vì lý do không sửa đổi bổ sung nội dung đơn khởi kiện?”, TNTP sẽ phân tích và làm rõ việc trả lại đơn khởi kiện của Tòa như vậy có đúng pháp luật hay không, cũng như các doanh nghiệp sẽ phải phản ứng như thế nào khi gặp phải tình huống tương tự.

Về việc yêu cầu bổ sung tài liệu, chứng cứ.

Thông thường sau khi doanh nghiệp nộp đơn khởi kiện, Thẩm phán phụ trách sẽ yêu cầu sửa đổi, bổ sung Đơn khởi kiện với những thông tin còn thiếu mà họ cho là quan trọng và cần thiết để giải quyết vụ án. Theo quy định tại Điều 96 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015, trường hợp tài liệu, chứng cứ đã được giao nộp nhưng chưa đầy đủ hoặc chưa đảm bảo cơ sở để giải quyết thì Thẩm phán có quyền yêu cầu người khởi kiện bổ sung tài liệu. Tuy nhiên khi người khởi kiện không cung cấp được tài liệu, chứng cứ Thẩm phán yêu cầu thì Thẩm phán cũng phải căn cứ vào các chứng cứ, tài liệu người khởi kiện đã nộp để giải quyết vụ việc.

Trường hợp doanh nghiệp đã áp dụng mọi biện pháp trong khả năng của mình nhưng không thể thu thập các tài liệu, chứng cứ theo yêu cầu của Tòa thì theo quy định tại Khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố Tụng Dân sự 2015, doanh nghiệp có quyền đề nghị Tòa án thu tập tài liệu, chứng cứ liên quan đến vụ án nếu doanh nghiệp đã áp dụng mọi biện pháp cần thiết nhưng không thể thu thập được tài liệu.

Như vậy Tòa án có quyền yêu cầu doanh nghiệp bổ sung các tài liệu, chứng cứ liên quan đến tranh chấp. Tuy nhiên yêu cầu bổ sung tài liệu, chứng cứ không phải là cơ sở bắt buộc để Tòa án thụ lý vụ án, trừ khi các tài liệu doanh nghiệp nộp vẫn chưa đủ để làm rõ lợi ích của doanh nghiệp bị xâm phạm. Do đó trường hợp hồ sơ khởi kiện của doanh nghiệp đã thể hiện được quyền và lợi ích của doanh nghiêp bị xâm phạm kèm theo Đơn khởi kiện đủ điều kiện theo quy định tại Điều 189 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015 thì Tòa án vẫn phải thụ lý vụ án trên cơ sở xem xét các tài liệu doanh nghiệp đã nộp.

Bị trả lại đơn khởi kiện vì lý do doanh nghiệp không sửa đổi, bổ sung đơn khởi kiện trong thời hạn Tòa án yêu cầu.

Căn cứ Khoản 1 Điều 192 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015 quy định như sau:

“Điều 192. Trả lại đơn khởi kiện, hậu quả của việc trả lại đơn khởi kiện: Thẩm phán trả lại đơn khởi kiện trong các trường hợp sau đây: e) Người khởi kiện không sửa đổi, bổ sung đơn khởi kiện theo yêu cầu của Thẩm phán quy định tại khoản 2 Điều 193 của Bộ luật này”

Đồng thời căn cứ quy định tại Khoản 2 Điều 193 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015 quy định:

Điều 193. Yêu cầu sửa đổi, bổ sung đơn khởi kiện: Trường hợp người khởi kiện đã sửa đổi, bổ sung đơn khởi kiện theo đúng quy định tại khoản 4 Điều 189 của Bộ luật này thì Thẩm phán tiếp tục việc thụ lý vụ án; nếu họ không sửa đổi, bổ sung theo yêu cầu thì Thẩm phán trả lại đơn khởi kiện và tài liệu, chứng cứ kèm theo cho người khởi kiện.”

Như vậy căn cứ vào các quy định trên, Tòa án có quyền trả lại đơn khởi kiện nếu doanh nghiệp không sửa đổi, bổ sung đơn khởi kiện trong thời gian Tòa án yêu cầu. Tuy nhiên, Tòa án có được phép trả lại đơn khởi kiện trong trường hợp doanh nghiệp không cung cấp được các tài liệu Tòa yêu cầu không?

Theo quy định tại Khoản 4 Điều 189 Bộ luật tố tụng dân sự 2015, hình thức và nội dung đơn khởi kiện chỉ bao gồm điều kiện về hình thức, nội dung cần có trong đơn khởi kiện (ngày tháng năm viết đơn, tên tòa án nhận đơn, nơi cư trú, địa chỉ của người khởi kiện, người bị kiện, nội dung đơn khởi kiện,…) hoàn toàn không có quy định về việc cung cấp tài liệu, chứng cứ.

Do đó Tòa án không có quyền trả lai đơn khởi kiện của doanh nghiệp vì lý do không cung cấp được tài liệu, chứng cứ Tòa án yêu cầu không nằm trong những trường hợp trả lại đơn khởi kiện do người khởi kiện không sửa đổi, bổ sung đơn khởi kiện theo quy định tại Điểm e Khoản 1 Điều 192 Bộ Luật Tố tụng Dân sự 2015 như đã phân tích trên.

Doanh nghiệp có thể làm gì trong trường hợp này?

Theo quy định của Luật tố tụng dân sự 2015, doanh nghiệp có thể gửi Đơn khiếu nại lên Tòa án để yêu cầu giải quyết vụ án khi có căn cứ cho rằng quyết định của Thẩm phán không đúng pháp luật và xâm phạm quyền lợi của doanh nghiệp. Cụ thể, theo quy định tại Khoản 4 Điều 194 Bộ luật Tố tụng dân sự quy định:

Điều 194. Khiếu nại, kiến nghị và giải quyết khiếu nại, kiến nghị về việc trả lại đơn khởi kiện

Căn cứ vào tài liệu, chứng cứ có liên quan đến việc trả lại đơn khởi kiện, ý kiến của đại diện Viện kiểm sát và đương sự có khiếu nại tại phiên họp, Thẩm phán phải ra một trong các quyết định sau đây: b) Nhận lại đơn khởi kiện và tài liệu, chứng cứ kèm theo để tiến hành việc thụ lý vụ án.”

Như vậy việc Tòa án trả lại Đơn khởi kiện của doanh nghiệp vì lý do doanh nghiệp không cung cấp được các tài liệu, chứng cứ Tòa án yêu cầu là không đúng quy định pháp luật. Do đó doanh nghiệp hoàn toàn có quyền Khiếu nại để yêu cầu Tòa án nhận lại đơn khởi kiện cùng các tài liệu đi kèm, cũng như thụ lý vụ án để đảm bảo quyền lợi của doanh nghiệp.

Trên đây là những chia sẻ pháp lý về cách giải quyết khi doanh nghiệp bị Tòa án trả lại đơn khởi kiện với lý do không bổ sung nội dung đơn khởi kiện theo yêu cầu của Tòa. Hi vọng bài viết “Doanh nghiệp cần làm gì khi bị tòa trả lại đơn khởi kiện vì lý do không sửa đổi bổ sung nội dung đơn khởi kiện?” có ích cho các bạn.

Trân trọng.

Có thể bạn quan tâm đến: Tòa án nào có thẩm quyền để giải quyết khởi kiện yêu cầu thu hồi công nợ?

Công ty Luật TNHH Quốc tế TNTP và Các Cộng sự

Tầng 4 số 200 phố Nguyễn Lương Bằng, Phường Quang Trung, Quận Đống Đa, Hà Nội

Luật sư: Nguyễn Thanh Hà

Email: ha.nguyen@tntplaw.com

 

Các vấn đề cần lưu ý khi ký kết Hợp đồng lao động

Quan hệ lao động là một quan hệ chủ chốt trong cuộc sống xã hội hiện nay. Để có thể phát sinh thu nhập, từ đó có sự chi tiêu, đầu tư, thúc đẩy kinh tế phát triển thì lao động là điều cần thiết. Tuy nhiên, thực tiễn Việt Nam cho thấy quyền lợi của người lao động vẫn chưa được bảo đảm. Có rất nhiều trường hợp người sử dụng lao động (NSDLĐ) không ký hợp đồng với người lao động (NLĐ) hoặc hợp đồng có nhiều điều khoản bất lợi cho người lao động nhưng người lao động không hiểu rõ hoặc đánh giá thấp những điều khoản này. Đến khi bị chấm dứt hợp đồng lao động (HĐLĐ), người lao động không thể đòi lại những quyền lợi của mình do đã “trót” ký và đồng ý với những điều khoản bất lợi.

Vậy để bảo vệ quyền lợi của mình, trước tiên người lao động phải có sự hiểu biết về pháp luật lao động và đọc kỹ HĐLĐ trước khi ký. Ngoài ra, Các vấn đề cần lưu ý khi ký kết Hợp đồng lao động

Thời hạn thử việc

Theo quy định của pháp luật, NLĐ và NSDLĐ có thể ký HĐLĐ có điều khoản thỏa thuận về thử việc. Đây cũng là tiền đề để hai bên bước vào quan hệ lao động chính thức sau này. Tuy nhiên, nhiều NLĐ thường đánh giá thấp quy định này mà không biết quyền lợi của mình đang bị xâm phạm.

Về thời hạn thử việc được quy định tại Điều 25 Bộ luật Lao động 2019 (BLLĐ), trường hợp NSDLĐ quy định thời hạn thử việc vượt quá quy định tại Điều 25 thì sẽ vi phạm pháp luật và có thể bị xử phạt vi phạm hành chính.

Căn cứ vào Điều 26 BLLĐ, tiền lương của NLĐ trong thời gian thử việc do hai bên thỏa thuận nhưng ít nhất phải bằng 85% mức lương của công việc đó. Đây là quy định mà NSDLĐ vi phạm rất nhiều trên thực tế, do đó NLĐ cần phải đặc biệt lưu ý để bảo vệ quyền lợi cho mình.

Căn cứ vào Điều 27 BLLĐ, khi kết thúc thời hạn thử việc, NSDLĐ phải thông báo kết quả thử việc cho NLĐ. Nếu thử việc đạt yêu cầu thì NSDLĐ phải tiếp tục thực hiện HĐLĐ đã giao kết.

Như vậy, để đảm bảo quyền lợi cho NLĐ, khi thỏa thuận ký HĐLĐ, NLĐ cần xem lại về thời hạn và lương thử việc có đúng quy định của pháp luật không. Tuy nhiên, NLĐ cần lưu ý rằng theo quy định hiện hành, trong thời gian thử việc, mỗi bên có quyền hủy bỏ hợp đồng thử việc hoặc hợp đồng lao động đã giao kết mà không cần báo trước mà không phải bồi thường.

Lương và các quyền lợi khác

Khi làm việc, điều mà NLĐ quan tâm nhất luôn là lương và các quyền lợi khác như bảo hiểm xã hội (BHXH), bảo hiểm y tế (BHYT), các trợ cấp như tiền thưởng, tiền nghỉ phép năm, chế độ nâng lương, … Do đó, NLĐ phải đặc biệt chú ý vào nội dung về lương và các quyền lợi khác trong HĐLĐ.

Quy định về tiền lương được quy định tại Chương VI BLLĐ, trong đó tiền lượng bao gồm mức lương theo công việc hoặc chức danh, phụ cấp lương và các khoản bổ sung khác. Pháp luật không điều chỉnh về mức lương tối đa hay mức lương cố định cho từng công việc nên NSDLĐ và NLĐ có thể tự do thỏa thuận. Tuy nhiên, pháp luật quy định mức lương theo công việc hoặc chức danh không được thấp hơn mức lương tối thiểu do Chính phủ quy định.

Kỷ luật lao động

Căn cứ vào Điều 124 BLLĐ, các hình thức xử lý kỷ luật lao động bao gồm: khiển trách, kéo dài thời hạn nâng lương không quá 06 tháng, cách chức, sa thải.

Trong đó, có hai vấn đề NSDLĐ thường xuyên vi phạm:

  • Phạt giảm/trừ tiền lương: Hiện nay, không thiếu công ty áp dụng hình thức phạt trừ tiền lương khi nhân viên, NLĐ có hành vi vi phạm nội quy, quy chế như đi làm muộn, nghỉ không phép, không đạt kết quả công việc, … Tuy nhiên, hình thức phạt giảm/trừ tiền lương không phải hình thức xử lý kỷ luật lao động. Do đó, nếu NSDLĐ quy định việc áp dụng hình thức phạt giảm/trừ tiền lương trong HĐLĐ thì sẽ vi phạm quy định của pháp luật tại Khoản 2 Điều 127 BLLĐ.
  • Sa thải: Trên thực tế, khi áp dụng hình thức sa thải, NSDLĐ thường vi phạm trong việc xử lý kỷ luật lao động như: việc xử lý kỷ luật lao động không có sự tham gia của tổ chức đại diện NLĐ tại cơ sở mà NLĐ đang bị xử lý kỷ luật là thành viên; NLĐ không có mặt trong phiên họp xử lý kỷ luật lao động hoặc không có quyền tự bào chữa; việc xử lý kỷ luật không được ghi thành biên bản (Khoản 1 Điều 122 BLLĐ).

Do đó, trước khi ký HĐLĐ, NLĐ nên lưu ý đến những quy định về kỷ luật lao động trong HĐLĐ cũng như nội quy lao động, quy chế của công ty nơi NLĐ định làm việc.

Chấm dứt HĐLĐ

Đơn phương chấm dứt HĐLĐ là một trong những tranh chấp phổ biến và xảy ra nhiều nhất ở quan hệ lao động. Để có thể bảo vệ quyền lợi của mình, NLĐ cần nắm được vấn đề sau:

  • Các trường hợp mà NLĐ và NSDLĐ được đơn phương chấm dứt HĐLĐ: NLĐ được đơn phương chấm dứt HĐLĐ theo căn cứ tại Điều 35 BLLĐ. NSDLĐ được đơn phương chấm dứt HĐLĐ theo căn cứ tại Khoản 1 Điều 36 BLLĐ. Ngoài ra, NSDLĐ không được đơn phương chấm dứt HĐLĐ nếu thuộc một trong các trường hợp tại Điều 37 BLLĐ. Một số trường hợp đặc biệt, NSDLĐ được đơn phương chấm dứt HĐLĐ do thay đổi cơ cấu, công nghệ hoặc vì lý do kính tế (Điều 42 BLLĐ); do chia, tách, hợp nhất, sáp nhập; bán, cho thuê, chuyển đổi loại hình doanh nghiệp; chuyển nhượng quyền sở hữu, quyền sử dụng tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã (Điều 43 BLLĐ).
  • Thủ tục khi đơn phương chấm dứt HĐLĐ: Trong các trường hợp đơn phương chấm dứt HĐLĐ quy định tại Điều 35 và Khoản 1 Điều 36 BLLĐ, NLĐ và NSDLĐ đều có nghĩa vụ phải thông báo trước một khoảng thời gian hợp lý do BLLĐ quy định. Trong các trường hợp đặc biệt tại Điều 42 và Điều 43 BLLĐ, NSDLĐ phải thực hiện phương án sử dụng lao động và phải trao đổi ý kiến với tổ chức đại diện NLĐ tại cơ sở.

Tóm lại, với những phân tích trên, những nội dung chính mà NLĐ nên chú ý đến khi thỏa thuận về HĐLĐ với NSDLĐ là thời hạn thử việc, lương và các quyền lợi khác, kỷ luật lao động, chấm dứt HĐLĐ. TNTP mong những chia sẻ pháp lý này sẽ có ích với bạn.

Trân trọng.

Công ty Luật TNHH Quốc tế TNTP và Các Cộng sự

Tầng 4 số 200 phố Nguyễn Lương Bằng, Phường Quang Trung, Quận Đống Đa, Hà Nội

Luật sư: Nguyễn Thanh Hà

Email: ha.nguyen@tntplaw.com

BÌNH LUẬN ÁN LỆ SỐ 20/2018/AL

Trong quan hệ lao động giữa người lao động và người sử dụng lao động, việc giao kết hợp đồng thử việc là một trong những điều kiện bắt buộc để xác định quyền và nghĩa vụ của các bên cũng như là một trong những căn cứ để xác lập hợp đồng lao động sau khi kết thúc thời gian thử việc. Tuy nhiên trên thực tế, rất nhiều trường hợp sau khi chấm dứt thời gian thử việc theo hợp đồng thử việc, người lao động và người sử dụng lao động vẫn không giao kết hợp đồng lao động mà người sử dụng lao động lại đề nghị kéo dài thời gian thử việc. Điều này gây ảnh hưởng lớn đến quyền và lợi ích hợp pháp của người lao động được pháp luật bảo vệ. Tuy nhiên theo quy định của pháp luật thì có được kéo dài thời gian thử việc hay không? Quyền và lợi ích hợp pháp của người lao động được giải quyết như thế nào trong trường hợp này? Thông qua Án lệ số 20/2018/AL, TNTP xin chia sẻ những bình luận đối với hợp đồng thử việc cũng như thời gian thử việc, và việc kéo dài thời gian thử việc giữa người lao động và người sử dụng lao động.

A. TÓM TẮT ÁN LỆ SỐ 20/2018/AL

“Ông Trần Công T vào làm việc tại Công ty trách nhiệm hữu hạn L theo Thư mời nhận việc ngày 20-8-2013 với nội dung: “Loại hợp đồng lao động: Xác định thời hạn (12 tháng hoặc hơn). Thời gian thử việc: 02 tháng. Hết thời gian thử việc (từ ngày 09-9-2013 đến ngày 09-11-2013), ông T không nhận được thông báo kết quả thử việc nhưng vẫn tiếp tục làm việc. Công ty trách nhiệm hữu hạn L cho rằng sau 02 tháng thử việc, ông T không đáp ứng được yêu cầu của công việc, nên Công ty đã quyết định cho ông T thử việc thêm 01 tháng để tạo điều kiện cho ông T hoàn thành nhiệm vụ và để có thêm thời gian đánh giá năng lực của ông T. Tuy nhiên, không có tài liệu nào thể hiện giữa ông T và Công ty trách nhiệm hữu hạn L đã có thỏa thuận với nhau về việc kéo dài thời gian thử việc.

Ngày 24-02-2014, ông Trần Công T có đơn khởi kiện về việc bị đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động, với các yêu cầu:

  1. Hủy Quyết định số 15/QĐKL-2013 ngày 29-12-2013 của Công ty trách nhiệm hữu hạn L về việc đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động đối với ông (“QĐ 15/QĐKL-2013”); và
  2. Thanh toán các khoản tiền theo quy định của pháp luật đối với hành vi đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động của Công ty L.

Tại Bản án lao động sơ thẩm số 01/2014/LĐ-ST ngày 12-8-2014, Tòa án nhân dân tỉnh Bình Thuận đã quyết định: (i) Bác yêu cầu khởi kiện của nguyên đơnông Trần Công T đối với yêu cầu hủy QĐ 15/QĐKL-2013; (ii) Bác yêu cầu khởi kiện của ông T đối với yêu cầu Công L phải bồi thường và thanh toán các khoản tiền lương; tiền bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế trong thời gian ông T không được làm việc tại Siêu thị L – Chi nhánh B.

Tại Bản án lao động phúc thẩm số 01/2015/LĐ-PT ngày 13-4-2015, Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại Thành phố Hồ Chí Minh đã quyết định: Không chấp nhận kháng cáo, giữ nguyên quyết định của án sơ thẩm.

Ông L tiếp tục có đơn đề nghị xem xét lại theo thủ tục giám đốc thẩm đối với quyết định của Tòa phúc thẩm nêu trên. Hội đồng thẩm phán TAND tối cao xét xử theo thủ tục giám đốc thẩm tuyên hủy Bản án lao động phúc thẩm số 01/2015/LĐPT ngày 13-4-2015 của Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại Thành phố Hồ Chí Minh và Bản án lao động sơ thẩm số 01/2014/LĐ-ST ngày 12-8-2014 cùa Tòa án nhân dân tỉnh Bình Thuận. Giao hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân dân thành phố Phan Thiết, tỉnh Bình Thuận xét xử sơ thẩm lại theo đúng quy định của pháp luật.

Theo đó, Hội đồng thẩm phán TAND tối cao nhận định: Quan hệ giữa Công ty L và ông T sau khi hết thời gian thử việc là quan hệ lao động; Công ty L chưa ký kết hợp đồng lao động với ông T; Công ty L cũng chưa có thỏa ước lao động tập thể, chưa có nội quy lao động. Do đó, không có căn cứ để đánh giá mức độ không hoàn thành công việc của người lao động. Tòa án cấp sơ thẩm và Tòa án cấp phúc thẩm kết luận ông T thường xuyên không hoàn thành công việc theo hợp đồng lao động và không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông T là không có căn cứ.

B. NHẬN XÉT ÁN LỆ SỐ 20/2018/AL

Dựa trên phần tóm tắt án lệ, TNTP có một vài ý kiến nhận xét như sau:

Thứ nhất, về thời gian thử việc:

Căn cứ theo quy định tại Khoản 2 Điều 25 Bộ luật Lao động 2019 quy định thời gian thử việc “Không quá 60 ngày đối với công việc có chức danh nghề cần trình độ chuyên môn, kỹ thuật từ cao đẳng trở lên”. Theo đó, thời gian thử việc tối đa là 60 ngày, trong trường hợp này, Ông T vào làm việc tại Công ty L theo Thư mời nhận việc ngày 20-8-2013 với nội dung: “Loại hợp đồng lao động: Xác định thời hạn (12 tháng hoặc hơn). Thời gian thử việc: 02 tháng.

Hết thời gian thử việc (từ ngày 09-9-2013 đến ngày 09-11-2013), như vậy thời gian thử việc của ông T là từ ngày 09/09/2013 đến ngày 09/11/2013 là 60 ngày theo đúng quy định của pháp luật.

Theo đó, theo quy định của pháp luật thì thời gian thử việc tối đa là 60 ngày và người sử dụng lao động không được kéo dài thời gian thử việc tối đa này đối với người lao động dưới bất kỳ hình thức nào

Thứ hai, về quan hệ lao động:

Căn cứ theo quy định tại Khoản 1 Điều 27 bộ luật Lao động 2019 quy định về kết thúc thời gian thử việc và quy định tại Khoản 1 Điều 7 Nghị định 05/2015/NĐ-CP ngày 12 tháng 01 năm 2015 quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số nội dung của bộ luật Lao Động thì chỉ có quy định về việc chuyển loại hợp đồng từ hợp đồng thử việc sang hợp đồng lao động, do đó, trong thời hạn 03 ngày trước khi hết thời hạn thử việc đối với ông T, công ty L có nghĩa vụ thông báo cho ông T kết quả công việc mà ông T đã làm thử tại Công ty L, tuy nhiên, Ông T đã không nhận được bất cứ thông báo của Công ty L về kết quả công việc mà ông T đã làm thử, sau đó, ông T tiếp tục làm việc tại công ty L đến ngày 19/12/2013. Việc Công ty L không thông báo với ông L về kết quả thử việc của ông L chậm nhất là ngày 06/11/2013 vi phạm về thời hạn thông báo của người sử dụng lao động theo quy định của pháp luật.

Công ty L cho rằng sau 02 tháng thử việc, ông T không đáp ứng được yêu cầu của công việc, nên Công ty đã quyết định cho ông T thử việc thêm 01 tháng để tạo điều kiện cho ông T hoàn thành nhiệm vụ và để có thêm thời gian đánh giá năng lực của ông T. Tuy nhiên, không có tài liệu nào thể hiện giữa ông T và Công ty L đã có thỏa thuận với nhau về việc kéo dài thời gian thử việc.

Ngoài ra, đại diện Công ty L thừa nhận rằng sau khi hết thời gian thử việc, ông T đã trở thành người lao động chính thức theo hợp đồng lao động có thời hạn là 12 tháng. Do đó, có đủ cơ sở để khẳng định quan hệ giữa ông T với Công ty L sau khi hết thời gian thử việc là quan hệ hợp đồng lao động.

Theo đó, có thể thấy, trong trường hợp thử việc đạt yêu cầu thì người sử dụng lao động có nghĩa vụ phải thông báo kết quả thử việc cho người lao động trong thời hạn 03 ngày trước khi hết thời hạn thử việc và giao kết hợp đồng lao động với người lao động, nếu người sử dụng lao động không thông báo với người lao động trong thời hạn quy định và không có thỏa thuận khác giữa hai bên thì quan hệ giữa người lao động và người sử dụng lao động là quan hệ hợp đồng lao động.

Trong nội dung tranh chấp tại Án lệ 20/2018/AL, Hội đồng thẩm phán TAND tối cao đã nhận định rằng quan hệ lao động giữa người lao động và người sử dụng lao động là quan hệ hợp đồng lao động nếu sau khi kết thúc thời gian thử việc (60 ngày) mà hai bên không có thỏa thuận khác thì quan hệ giữa người lao động và người sử dụng lao động là quan hệ hợp đồng lao động.

Đây chính là quan điểm của Tòa án Nhân dân Tối cao về quan hệ lao động giữa người lao động và người sử dụng lao động sau khi kết thúc thời gian thử việc để áp dụng xét xử trong các trường hợp tranh chấp tương tự.

C. ÁP DỤNG THỰC TẾ

Thứ nhất, về thời gian thử việc, tranh chấp tại Án lệ số 20/2018/AL là tranh chấp về xác lập quan hệ hợp đồng lao động sau khi hết thời gian thử việc, tuy nhiên nội dung của tranh chấp tại án lệ 20/2018, Tòa án Nhân dân Tối cao lại không nhận định là có được thỏa thuận với nhau về việc kéo dài thời hạn thử việc hay không? Theo quan điểm của TNTP, khi người lao động chưa đạt yêu cầu đối với kết quả công việc mà người lao động đã làm thử thì người sử dụng lao động không được kéo dài thời gian thử việc, không được ký hơp đồng thử việc lần 02; và

Thứ hai, về quan hệ lao động, sau khi hết thời gian thử việc mà người lao động vẫn tiếp tục làm việc mà hai bên không có thỏa thuận khác thì giữa người lao động và người sử dụng lao động đã xác lập quan hệ hợp đồng lao động. Việc người sử dụng lao động thông báo với người lao động về kết quả công việc mà người lao động đã làm thử sau khi khi hết thời hạn thử việc sẽ không ảnh hưởng đến quan hệ hợp đồng lao động đã được xác lập giữa người lao động và người sử dụng lao động.

Trên thực tế, do phụ thuộc vào tính chất, yêu cầu công việc, người sử dụng lao động vẫn tiến hành kéo dài thời gian thử việc dưới dạng thỏa thuận với người lao động ký hợp đồng học nghề, tập nghề để thêm thời gian đào tạo. Khi  hết thời hạn học nghề, tập nghề, hai bên ký kết hợp đồng lao động như quy định, việc này gây ảnh hưởng lớn đến quyền và lợi ích hợp pháp của người lao động.

Trên đây là bài bình luận Án lệ số 20/2018/AL của TNTP. Qua đây có thể thấy, để bảo vệ tối đa quyền và lợi ích hợp pháp của người lao động yếu thế trong quan hệ lao động, người lao động cần nắm rõ các quy định của pháp luật về thời gian thử việc đối với hợp đồng thử việc cũng như nghĩa vụ thông báo về kết quả thử việc của người sử dụng lao động đối với người lao động và việc chuyển từ hợp đồng thử việc sang hợp đồng lao động. TNTP mong bài viết này hữu ích với các bạn.

Trân trọng.

Công ty Luật TNHH Quốc tế TNTP và Các Cộng sự

Tầng 4, Số 200 Nguyễn Lương Bằng, Phường Quang Trung, Quận Đống Đa, Hà Nội

Luật sư Nguyễn Thanh Hà

Email: ha.nguyen@tntplaw.com

 

 

BỘ QUY TẮC ĐẠO ĐỨC VÀ ỨNG XỬ NGHỀ NGHIỆP LUẬT SƯ VIỆT NAM (song ngữ tiếng Việt – tiếng Anh)

Trên thế giới cũng như tại Việt Nam, nghề luật sư được coi là một nghề cao quý bởi luật sư góp một phần vai trò quan trọng trong việc bảo vệ công lý và công bằng xã hội. Để có thể hành nghề luật sư, việc học đào tạo nghề luật sư và thi lấy thẻ luật sư là chưa đủ. Ta còn phải giữ cho mình đạo đức và thái độ ứng xử phù hợp. Tuy nhiên, thế nào là đạo đức và thái độ ứng xử phù hợp? Theo quan điểm mỗi người, đạo đức và thái độ ứng xử phù hợp có thể sẽ được áp dụng khác nhau. Chính vì vậy, để có thể thống nhất cách ứng xử của luật sư, Liên đoàn Luật sư tại các quốc gia trên thế giới cũng như tại Việt Nam đã ban hành các Quy tắc đạo đức và ứng xử nghề nghiệp luật sư như một chuẩn mực để đánh giá luật sư và dịch vụ pháp lý của luật sư. Hiện tại, Quy tắc đạo đức và ứng xử nghề nghiệp luật sư đang có hiệu lực pháp luật là Bộ Quy tắc Đạo đức và Ứng xử Nghề nghiệp luật sư Việt Nam do Liên đoàn Luật sư ban hành kèm theo Quyết định số 201//QĐ-HĐLSTQ ngày 13/12/2019 của Hội đồng luật sư toàn quốc.

Để có thể giúp mọi người tiếp cận và hiểu rõ hơn về nghề luật sư cũng như đạo đức và ứng xử của nghề luật sư, sau đây TNTP xin trân trọng giới thiệu Bộ quy tắc đạo đức và ứng xử nghề nghiệp luật sư Việt Nam. Với sự nỗ lực tìm kiếm của TNTP, xét thấy Bộ Quy tắc Đạo đức và Ứng xử Nghề nghiệp luật sư Việt Nam chưa được bất kỳ cơ quan, tổ chức nào dịch sang tiếng Anh, do đó, TNTP xin chia sẻ Bộ Quy tắc Đạo đức và Ứng xử Nghề nghiệp luật sư Việt Nam bản song ngữ Việt – Anh.

 

BỘ QUY TẮC

SET OF RULES

 

ĐẠO ĐỨC VÀ ỨNG XỬ NGHỀ NGHIỆP

LUẬT SƯ VIỆT NAM

ETHICS AND PROFESSIONAL CONDUCT

OF VIETNAMESE LAWYERS

 

Chương I

Chapter I

QUY TẮC CHUNG

MAIN RULE

Quy tắc 1. Sứ mệnh của luật sư

Rule 1. Mission of Lawyers

Luật sư có sứ mệnh bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các cá nhân, tổ chức, cơ quan, bảo vệ sự độc lập của tư pháp, góp phần bảo vệ công lý, công bằng, phát triển kinh tế – xã hội và xây dựng nhà nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

Lawyers have mission to protect human rights, civil rights, legal rights and interest of individuals, organizations and agencies, the independence of judiciary, contribute to protecting justice, fairness, society – economic development and build a socialist Vietnam law – governed state.

Quy tắc 2. Độc lập, trung thực, tôn trọng sự thật khách quan

Rule 2. Independent, truthful, respectful of objective truth

Luật sư phải độc lập, trung thực, tôn trọng sự thật khách quan, không vì lợi ích vật chất, tinh thần hoặc bất kỳ áp lực nào khác để làm trái pháp luật và đạo đức nghề nghiệp.

Lawyers must be independent, truthful, respectful of objective truth, not violate the law and professional ethics for the benefits of material, spirit or any other pressure.

Quy tắc 3. Giữ gìn danh dự, uy tín và phát huy truyền thống của luật sư

Rule 3. Preserve the honor, prestige and promote the tradition of lawyers

3.1 Luật sư coi trọng, bảo vệ danh dự, uy tín của đội ngũ luật sư như bảo vệ danh dự, uy tín của chính mình; xây dựng, củng cố, duy trì niềm tin của khách hàng, cộng đồng xã hội với luật sư và nghề luật sư.

Lawyers must respect and protect the honor and prestige of lawyers association like protect their own honor and prestige; build, consolidate and maintain the trust of client and the social community with lawyers and the legal profession.

3.2 Luật sư có nghĩa vụ phát huy truyền thống tốt đẹp của nghề luật sư; thường xuyên học tập nâng cao trình độ chuyên môn; giữ gìn phẩm chất, nhân cách và uy tín nghề nghiệp; có thái độ ứng xử đúng mực, có văn hóa trong hành nghề và lối sống; xứng đáng với sự tin cậy, tôn trọng của xã hội đối với luật sư và nghề luật sư.

Lawyers have obligation to promote the good tradition of the legal profession; regularly study to improve expertise level; preserve quality, personality and professional prestige; have a proper, cultural attitude in profession practice and lifestyle; deserve the trust and the respect of society with lawyers and the legal profession.

Quy tắc 4. Tham gia hoạt động cộng đồng

Rule 4. Join community activities

4.1 Luật sư luôn sẵn sàng và tích cực tham gia vào những hoạt động vì lợi ích chung của cộng đồng xã hội, phù hợp với nghề nghiệp của luật sư.

Lawyers always prepare and actively participate in activities for the common benefit of the social community in accordance with their profession.

4.2 Luật sư thực hiện trợ giúp pháp lý bằng sự tận tâm, vô tư và trách nhiệm nghề nghiệp như đối với các vụ việc có nhận thù lao.

Lawyers provide legal aid with the conscientiousness, impartiality and professional responsibility as in paid cases.

 

Chương II

Chapter II

QUAN HỆ VỚI KHÁCH HÀNG

RELATIONSHIP WITH CLIENT

 

Mục 1. Những quy tắc cơ bản

Section 1. Basic rules

 

Quy tắc 5. Bảo vệ tốt nhất quyền và lợi ích hợp pháp của khách hàng

Rule 5. Defend the customer’s legal rights and interests in the best way

Luật sư có nghĩa vụ tận tâm với công việc, phát huy năng lực, sử dụng kiến thức chuyên môn, kỹ năng nghề nghiệp và các biện pháp hợp pháp để bảo vệ tốt nhất quyền và lợi ích hợp pháp của khách hàng theo quy định của pháp luật và Bộ Quy tắc Đạo đức và Ứng xử nghề nghiệp luật sư Việt Nam.

Lawyers are obliged to be conscientious with regard to their work, promote their capability, use expertise knowledge, professional skills and legal measures to protect the legal rights and interests of clients in the best way in accordance with the laws and Set of Rules Ethics and Professional Conduct of Vietnamese Lawyers.

Quy tắc 6. Tôn trọng khách hàng

Rule 6. Respect Client

Luật sư thực hiện việc cung cấp dịch vụ pháp lý trên cơ sở yêu cầu hợp pháp của khách hàng, tôn trọng quyền, lợi ích hợp pháp và sự lựa chọn của khách hàng.

Lawyers provide legal services based on legal requirements of the clients, respect clients’ legal rights, interests and choices.

Quy tắc 7. Giữ bí mật thông tin

Rule 7.  Keep confidential information

7.1 Luật sư có nghĩa vụ giữ bí mật thông tin của khách hàng khi thực hiện dịch vụ pháp lý và sau khi đã kết thúc dịch vụ đó, trừ trường hợp được khách hàng đồng ý hoặc theo quy định của pháp luật.

Lawyers are obliged to keep confidential information of clients while performing legal services and after finishing such services unless the clients agree or it is prescribed by law.

7.2 Luật sư có trách nhiệm yêu cầu các đồng nghiệp có liên quan và nhân viên trong tổ chức hành nghề của mình cam kết không tiết lộ những bí mật thông tin mà họ biết được và luật sư có trách nhiệm giải thích rõ nếu tiết lộ thì phải chịu trách nhiệm trước pháp luật.

Lawyers are responsible for requesting the relevant colleagues and staff in their law-firm to commit to not disclose any confidential information that they know and lawyers are responsible for explaining clearly if the confidential information is disclosed, they have to take responsible in accordance with the law.

Quy tắc 8. Thù lao

Rule 8. Remuneration

Luật sư phải giải thích cho khách hàng những quy định của pháp luật về căn cứ tính thù lao, phương thức thanh toán thù lao; thông báo rõ ràng mức thù lao, chi phí cho khách hàng và mức thù lao, chi phí này phải được ghi trong hợp đồng dịch vụ pháp lý.

The lawyer must explain provisions of the law on the bases to calculate remuneration, method of remuneration payment to clients; notify clearly the value of remuneration, cost to clients and this value of remuneration, cost must be stated in the legal services agreement.

Quy tắc 9. Những việc luật sư không được làm trong quan hệ với khách hàng

Rule 9. Prohibitions in relationship with clients

9.1 Nhận, chiếm giữ, sử dụng tiền, tài sản của khách hàng trái với thỏa thuận giữa luật sư và khách hàng.

Receiving, possessing, using clients’ money and property contrary to the agreement between lawyers and clients.

9.2 Gợi ý, đặt điều kiện để khách hàng tặng cho tài sản hoặc lợi ích khác cho luật sư hoặc cha, mẹ, vợ, chồng, con, anh, chị, em của luật sư.

Suggesting, setting conditions so as to clients give property or other benefits to lawyers or lawyers’ father, mother, wife, husband, children, brothers, sisters.

9.3 Nhận tiền hoặc bất kỳ lợi ích nào khác từ người thứ ba để thực hiện hoặc không thực hiện công việc gây thiệt hại đến lợi ích của khách hàng.

Receiving money or any other benefit from a third party to do or not do tasks, which causes damages to the interests of the clients.

9.4 Tạo ra hoặc lợi dụng các tình huống xấu, những thông tin sai sự thật, không đầy đủ hoặc bất lợi cho khách hàng để gây áp lực nhằm tăng mức thù lao đã thỏa thuận hoặc có được lợi ích khác từ khách hàng.

Creating or taking advantage of bad situations, untruth, incomplete, or disadvantage information for clients to put pressure on clients to increase the agreed remuneration or to get other benefits from clients.

9.5 Sử dụng thông tin biết được từ vụ việc mà luật sư đảm nhận để mưu cầu lợi ích không chính đáng.

Using information known from the case to seek improper benefits.

9.6 Thông tin trực tiếp cho khách hàng hoặc dùng lời lẽ, hành vi ám chỉ để khách hàng biết về mối quan hệ cá nhân của luật sư với cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng hoặc cá nhân, cơ quan, tổ chức có thẩm quyền khác nhằm mục đích gây niềm tin với khách hàng về hiệu quả công việc hoặc nhằm mục đích bất hợp pháp khác.

Directly informing clients or using words or behaviors to imply to clients about lawyers’ personal relationship with proceeding-conducting agencies, proceeding-conducting person or other competent individuals, agencies, organizations for the purpose of gaining clients’ belief about result of task or for other illegal purposes.

9.7 Cố ý đưa ra những thông tin làm cho khách hàng nhầm lẫn về khả năng và trình độ chuyên môn của mình để tạo niềm tin cho khách hàng ký kết hợp đồng.

Intentionally giving out information to make clients misjudge about lawyers’ abilities and expertise level to create clients’ belief for signing agreement.

9.8 Hứa hẹn, cam kết bảo đảm kết quả vụ việc về những nội dung nằm ngoài khả năng, điều kiện thực hiện của luật sư.

Promising, committing result of the case about contents beyond the ability and condition of lawyers.

9.9 Lợi dụng nghề nghiệp để quan hệ tình cảm nam nữ bất chính với khách hàng.

Taking advantage of professional to have unrighteous sexual relationships with clients.

9.10 Lạm dụng các chức danh khác ngoài danh xung luật sư trong hoạt động hành nghề để mưu cầu lợi ích trái pháp luật.

Abuse of title other than lawyers in professional practice to seek illegal benefits.

 

Mục 2. NHẬN VỤ VIỆC

Section 2. RECEIVE THE CASE

 

Quy tắc 10. Tiếp nhận vụ việc của khách hàng

Rule 10. Receive the case of clients

10.1 Khi được khách hàng yêu cầu tiếp nhận vụ việc, luật sư cần nhanh chóng trả lời cho khách hàng biết về việc có tiếp nhận vụ việc hay không.

When clients request lawyers to receive the case, lawyers must quickly response to clients whether they receive the case or not.

10.2 Luật sư không phân biệt đối xử về giới tính, dân tộc, tôn giáo, quốc tịch, tuổi tác, sức khỏe, khuyết tật, tình trạng tài sản của khách hàng khi tiếp nhận vụ việc. Trường hợp biết khách hàng thuộc đối tượng được trợ giúp pháp lý miễn phí thì luật sư thông báo cho họ biết.

Lawyers do not discriminate about the clients’ gender, ethnicity, religion, nationality, age, health, disability, or property status upon receiving the case. In case of knowing that client is eligible for free legal aid, lawyers must notify them.

10.3 Luật sư chỉ nhận vụ việc theo điều kiện, khả năng chuyên môn của mình và thực hiện vụ việc trong phạm vi yêu cầu hợp pháp của khách hàng.

Lawyers only accept the case according to their condition, expertise ability and conduct the case within the scope of legal requirement of clients.

10.4 Luật sư có nghĩa vụ giải thích cho khách hàng biết về quyền, nghĩa vụ và trách nhiệm của họ trong quan hệ với luật sư; về tính hợp pháp trong yêu cầu của khách hàng; những khó khăn, thuận lợi có thể lường trước được trong việc thực hiện dịch vụ pháp lý; quyền khiếu nại và thủ tục giải quyết khiếu nại của khách hàng đối với luật sư.

Lawyers are obliged to explain the rights, obligations and responsibilities in relationship with lawyers; the legality in requirements of clients; foreseeable difficulties and advantages in implementing legal services; right to complain and procedure for resolving clients’ complaints against lawyers to clients.

10.5 Khi nhận vụ việc của khách hàng, luật sư phải ký kết hợp đồng dịch vụ pháp lý, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác. Trong hợp đồng dịch vụ pháp lý phải xác định rõ yêu cầu của khách hàng, mức thù lao và những nội dung chính khác mà hợp đồng dịch vụ pháp lý phải có theo quy định của pháp luật.

When accept to receive clients’ case, lawyers must sign legal services agreement unless the law regulates differently. Legal services agreement must be specified clearly the clients’ requirements, value of remuneration and other main contents that legal services agreement must have in accordance with the law.

Quy tắc 11. Những trường hợp luật sư phải từ chối khi tiếp nhận vụ việc của khách hàng

Rule 11. Situations that lawyers must reject the case of clients

11.1 Khách hàng thông qua người khác yêu cầu luật sư mà luật sư biết rõ người này có biểu hiện lợi dụng tư cách đại diện cho khách hàng để mưu cầu lợi ích không chính đáng làm ảnh hưởng đến quyền lợi hợp pháp của khách hàng.

Clients request lawyers through another person that lawyers know this person appears to take advantage of the capacity on behalf of clients to seek for his own improper benefits, which affects the legal interests of clients.

11.2 Khách hàng yêu cầu dịch vụ pháp lý của luật sư mà luật sư biết rõ khách hàng có ý định lợi dụng dịch vụ đó cho mục đích vi phạm điều cấm của pháp luật hoặc khách hàng không tự nguyện mà bị phụ thuộc theo yêu cầu của người khác.

Clients request legal service of lawyers but lawyers know clearly that clients intend to take advantage of that service for purpose of violating the prohibition of the law or clients are not voluntary but dependent on the request of others.

11.3 Có căn cứ rõ ràng xác định khách hàng đã cung cấp chúng cứ giả hoặc yêu cầu của khách hàng trái đạo đức, vi phạm điều cấm của pháp luật.

There are clear bases to determine that clients have provided fake evidence or request of clients are unethical, violate of the prohibitions of the law.

11.4 Vụ việc của khách hàng có xung đột về lợi ích theo quy định tại Quy tắc 15.

The case of clients has an inconsistency of interest as set forth in Rule 15.

 

Mục 3. THỰC HIỆN VỤ VIỆC

Section 3. IMPLEMENTATION OF THE CASE

 

Quy tắc 12. Thực hiện vụ việc của khách hàng

Rule 12. Implementation of clients’ case

12.1 Luật sư chủ động, tích cực giải quyết vụ việc của khách hàng và thông báo tiến trình giải quyết vụ việc để khách hàng biết.

Lawyers must settle clients’ case proactively, actively and inform clients about the case resolution process.

12.2 Luật sư nhận và có trách nhiệm bảo quản, giữ gìn tài liệu, hồ sơ mà khách hàng giao cho mình theo quy định của pháp luật hoặc thỏa thuận với khách hàng.

Lawyers receive and are responsible for preserving and keeping documents that clients provide to them according to the provisions of law or agreements with clients.

12.3 Khi thực hiện vụ việc, luật sư phải có thái độ ứng xử phù hợp, tránh làm phát sinh tranh chấp với khách hàng. Nếu có bất đồng giữa luật sư và khách hàng hoặc có khiếu nại của khách hàng, luật sư cần có thái độ đúng mực, tôn trọng khách hàng, chủ động thương lượng, hòa giải với khách hàng.

During processing of the case, lawyers must have the appropriate attitude, avoid arising dispute with clients. If there is any disagreement between lawyers and clients or clients have complain, lawyers should have a proper attitude, respect clients, actively negotiate and mediate with clients.

12.4 Trong trường hợp đang cùng thực hiện một vụ việc, nếu có sự không thống nhất ý kiến giữa các luật sư có thể gây bất lợi cho khách hàng thì luật sư phải thông báo để khách hàng thực hiện quyền lựa chọn.

In case of performing the same case, if there is disagreement between lawyers that probably cause disadvantages for clients, lawyers must inform and explain to clients to choose an option.

Quy tắc 13. Từ chối tiếp tục thực hiện vụ việc của khách hàng

Rule 13. Refusing to continue performing clients’ case

13.1 Luật sư có thể từ chối tiếp tục thực hiện vụ việc trong các trường hợp sau đây:

Lawyers can refuse to continue performing clients’ case in the following situations:

    • Khách hàng đưa ra yêu cầu mới mà yêu cầu này không thuộc phạm vi hành nghề luật sư hoặc trái đạo đức, trái pháp luật;

Clients make a new request that is not within the scope of law practice or is unethical or illegal;

    • Khách hàng không chấp nhận ý kiến tư vấn giải quyết vụ việc đúng pháp luật, phù hợp với đạo đức do luật sư đưa ra, mặc dù luật sư đã cố gắng phân tích thuyết phục;

Even though lawyers tried to convince and analyze, clients do not accept the legal advice given by lawyers to resolve the case in accordance with the ethics and the laws;

    • Khách hàng vi phạm cam kết theo hợp đồng dịch vụ pháp lý mà các bên không thể thỏa thuận được hoặc quan hệ giữa luật sư với khách hàng bị tổn hại không phải do lỗi của luật sư;

Client violate the commitment under the legal service agreement and the parties cannot reach an agreement or the relationship between lawyers and clients is damaged not due to the fault of lawyers;

    • Có sự đe dọa hoặc áp lực về vật chất hoặc tinh thần từ khách hàng hoặc người khác buộc luật sư phải làm trái pháp luật và đạo đức nghề nghiệp;

There is a threat or physical or mental pressure from clients or others to force lawyers to act against the law and professional ethics;

    • Có căn cứ xác định khách hàng đã lừa dối luật sư.

There are evidences to determine that clients lied to lawyers.

13.2 Luật sư phải từ chối tiếp tục thực hiện vụ việc trong các trường hợp sau đây:

Lawyers must refuse to continue performing the case in the following situations:

    • Có căn cứ xác định khách hàng sử dụng dịch vụ pháp lý của luật sư để thực hiện hành vi vi phạm điều cấm của pháp luật, trái đạo đức;

There is evidences to identify clients using legal service of lawyers to perform acts for violating prohibitions of the law and unethical behavior;

    • Phát hiện vụ việc thuộc trường hợp quy định tại Quy tắc 11;

Lawyers discover that case is under the circumstance specified in Rule 11;

    • Các trường hợp phải từ chối do quy định của pháp luật hoặc trường hợp bất khả kháng.

In case of refusal due to provisions of law or force majeure.

Quy tắc 14. Giải quyết khi luật sư đơn phương chấm dứt thực hiện dịch vụ pháp lý

Rule 14. Settlement when lawyers unilaterally terminate the legal services

Khi đơn phương chấm dứt thực hiện dịch vụ pháp lý theo Quy tắc 13, luật sư cần có thái độ tôn trọng khách hàng, thông báo bằng văn bản cho khách hàng trong thời hạn hợp lý để khách hàng có điều kiện tìm luật sư khác, đồng thời giải quyết nhanh chóng các vấn đề liên quan đến việc chấm dứt hợp đồng dịch vụ pháp lý đã ký kết.

When unilaterally terminating the performance of legal services under Rule 13, lawyers should respect clients and notify clients in writing within a reasonable time so that clients can find another lawyer, simultaneously, lawyers must quickly solve problems related to the termination of legal service agreement signed with clients.

Quy tắc 15. Xung đột về lợi ích

Rule 15. Conflicts of interest

15.1 Xung đột về lợi ích là trường hợp do ảnh hưởng từ quyền lợi của luật sư, nghĩa vụ của luật sư đối với khách hàng hiện tại, khách hàng cũ, bên thứ ba dẫn đến tình huống luật sư bị hạn chế hoặc có khả năng bị hạn chế trong việc thực hiện nghĩa vụ bảo vệ tốt nhất quyền và lợi ích hợp pháp của khách hàng, nghĩa vụ giữ bí mật thông tin của khách hàng.

Luật sư không được nhận hoặc thực hiện vụ việc trong trường hợp có xung đột về lợi ích, trừ trường hợp được phép theo quy định của pháp luật hoặc theo Quy tắc này.

Conflicts of interest is the situation that due to the influence of the lawyer’s obligations and rights with current clients, old clients and the third party, it leads to the situation in which lawyer are limited or likely to be limited in performing the obligation to protect the best legal rights, interests of clients and keeping the confidential information of clients.

Lawyer must not receive or perform the case having conflicts of interest, except the case it is permitted by law or under this Set of Rules.

15.2 Trong quá trình thực hiện vụ việc, luật sư cần chủ động tránh để xảy ra xung đột về lợi ích. Nếu phát hiện có xung đột về lợi ích xảy ra ngoài ý muốn của luật sư thì luật sư cần chủ động thông báo ngay với khách hàng để giải quyết.

In the process of implementing the case, lawyers need to actively avoid conflicts of interest. If lawyers discover conflicts of interest occurred unexpectedly, lawyers need to notify client immediately for resolution.

15.3 Luật sư phải từ chối tiếp nhận vụ việc hoặc từ chối tiếp tục thực hiện vụ việc trong các trường hợp sau đây:

Lawyers must refuse to receive or continue performing the case in the following situations:

    • Vụ việc trong đó các khách hàng có quyền lợi đối lập nhau;

The case that clients have opposing interest;

    • Vụ việc trong đó khách hàng mới có quyền lợi đối lập với khách hàng hiện tại; vụ việc khác của khách hàng là người đang có quyền lợi đối lập với khách hàng hiện tại trong vụ việc luật sư đang thực hiện.

The case that new clients have conflicts of interest with current clients; other case of clients who are having opposing interest with current clients in the case that lawyers are implementing;

    • Vụ việc trong đó khách hàng mới có quyền lợi đối lập với khách hàng cũ trong cùng một vụ việc hoặc vụ việc khác có liên quan trực tiếp mà trước đó luật sư đã thực hiện cho khách hàng cũ;

The case that new clients have opposing interest against old clients in the same case or other directly related cases that lawyers performed before for the benefit of old client;

    • Vụ việc của khách hàng có quyền lợi đối lập với quyền lợi của luật sư hoặc cha, mẹ, vợ, chồng, con, anh, chị, em của luật sư;

The case of clients who have interests contrary to the interests of lawyers or lawyers’ father, mother, wife, husband, children, siblings;

    • Vụ việc mà luật sư đã tham gia giải quyết với tư cách người tiến hành tố tụng, cán bộ, công chức khác trong cơ quan nhà nước, trọng tài viên, hòa giải viên;

The case in which lawyers participated in settling in the capacity of proceeding-conducting persons, other cadres and civil servants in state agencies, arbitrators or mediators;

    • Vụ việc của khách hàng do cha, mẹ, vợ, chồng, con, anh, chị, em của luật sư đang cung cấp dịch vụ pháp lý có quyền lợi đối lập với khách hàng của luật sư;

The case of clients whose legal services is being provided by lawyers’ father, mother, wife, husband, children, siblings has opposing interests against lawyers’ clients;

    • Trường hợp luật sư không được nhận hoặc thực hiện vụ việc cho khách hàng quy định tại Quy tắc 15.3 này, luật sư khác đang làm việc trong cùng tổ chức hành nghề luật sư cũng không được nhận hoặc thực hiện vụ việc, trừ trường hợp tại Quy tắc 15.3.4 và 15.3.6.

In case lawyers are not allowed to receive or perform the case for clients as specified in this Rule 15.3, other lawyers working in the same law-practicing organization are not allowed to receive or perform the case, either, unless situations specified in Rules 15.3.4 and 15.3.6.

15.4 Luật sư vẫn có thể nhận hoặc thực hiện vụ việc trong các trường hợp tại Quy tắc 15.3, nếu có sự đồng ý bằng văn bản của khách hàng, trừ các trường hợp sau đây:

Lawyers still can receive or implement cases under Rule 15.3 with the client’s written consent, except for the following situations:

    • Các trường hợp bị cấm theo quy định của pháp luật;

Situations are prohibited by law;

    • Các vụ án, vụ việc tố tụng, vụ việc khiếu nại hành chính, vụ việc giải quyết tranh chấp theo thủ tục trọng tài, hòa giải thương mại;

Cases, procedural cases, administrative complaints, disputes settled according to arbitration procedures and commercial mediation;

    • Trường hợp tại Quy tắc 15.3.5.

Situations specified in Rule 15.3.5.

 

Mục 4. KẾT THÚC VỤ VIỆC

Section 4. END OF THE CASE

 

Quy tắc 16. Thông báo kết quả thực hiện vụ việc

Rule 16. Notice performance result of the case

Khi kết thúc vụ việc, luật sư cần thông tin cho khách hàng biết về kết quả thực hiện vụ việc và thanh lý hợp đồng theo thỏa thuận.

At the end of the case, lawyers need to inform clients about the performance result of the case and liquidate the contract as agreed.

 

Chương III.

Chapter III

 

QUAN HỆ VỚI ĐỒNG NGHIỆP

RELATIONSHIP WITH COLLEAGUE

 

Quy tắc 17. Tình đồng nghiệp của luật sư

Rule 17. Co-worker relationship of lawyers

17.1 Trong giao tiếp, hành nghề luật sư, luật sư phải tôn trọng lẫn nhau, không phân biệt tuổi tác và thời gian hành nghề.

Within communication and law-practice, lawyers must respect each other regardless of age and seniority level.

17.2 Luật sư không để kết quả thắng, thua trong hành nghề làm ảnh hưởng đến tình đồng nghiệp của luật sư.

Lawyers do not let the results win-lose in professional practice affect co-worker relationship of lawyers.

Quy tắc 18. Tôn trọng và hợp tác với đồng nghiệp

Rule 18. Respect and cooperate with colleague

18.1 Luật sư có ý thức tôn trọng, hợp tác và giúp đỡ đồng nghiệp trong hành nghề cũng như trong cuộc sống; góp ý kịp thời khi thấy đồng nghiệp làm điều sai trái, ảnh hưởng đến uy tín nghề nghiệp luật sư.

Lawyers must respect, cooperate and help colleagues in practice law as well as in life; offer timely suggestions when colleagues do the wrong things, affecting the reputation of lawyers.

18.2 Trường hợp các luật sư có quan điểm khác nhau khi bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của cùng một khách hàng trong cùng vụ việc, luật sư cần trao đổi để tránh xảy ra mâu thuẫn, gây ảnh hưởng đến tình đồng nghiệp và quyền lợi của khách hàng.

In case lawyers have different opinions when protecting the legal rights and interests of the same client in the same case, lawyers need to discuss with each other to avoid disputes, affecting co-worker relationship and benefit of the client.

Quy tắc 19. Cạnh tranh nghề nghiệp

Rule 19. Career competition

Luật sư không thực hiện các hành vi cạnh tranh không lành mạnh ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của đồng nghiệp.

Lawyers are not allowed to conduct unfair competitive practices that affect the legal rights and interests of colleagues.

Quy tắc 20. Ứng xử khi có tranh chấp quyền lợi với đồng nghiệp

Rule 20. Conduct when having dispute of interest with colleagues

20.1 Trường hợp có tranh chấp quyền lợi với đồng nghiệp, luật sư cần thương lượng, hòa giải để giữ tình đồng nghiệp; chỉ thực hiện việc khiếu nại, khởi kiện đồng nghiệp khi việc thương lượng, hòa giải không có kết quả.

In case there is a dispute with colleagues, lawyers need to negotiate and mediate to keep co-worker relationship and only file complaints, initiate lawsuits against colleagues when the negotiation and mediation are ineffective.

20.2 Trước khi khiếu nại, khởi kiện đồng nghiệp, luật sư cần thông báo cho Ban Chủ nhiệm Đoàn luật sư nơi mình là thành viên và Ban Chủ nhiệm Đoàn luật sư nơi đồng nghiệp là thành viên biết để có thể hòa giải.

Before filing a complaint or initiating a lawsuit against colleagues, lawyers need to notify the Management Board of the Bar Association where lawyers are members and the Management Board of the Bar Association where colleagues are members to mediate.

Quy tắc 21. Những việc luật sư không được làm trong quan hệ với đồng nghiệp

Rule 21. Things that lawyers must not do in relationship with colleagues

21.1 Có lời nói, hành vi vu khống, xúc phạm danh dự, nhân phẩm, uy tín của đồng nghiệp hoặc gây áp lực, đe dọa đồng nghiệp.

Saying words or acts that slander, offend the honor, dignity, or reputation of colleagues or putting pressure, intimidate them.

21.2 Thông đồng, đưa ra đề nghị với luật sư của khách hàng có quyền lợi đối lập với khách hàng của mình để cùng mưu cầu lợi ích cá nhân.

Colluding, offering suggestion with lawyers of clients who have opposing interests with their clients to seek personal benefits together.

21.3 Tiếp xúc, trao đổi riêng với khách hàng đối lập về quyền lợi với khách hàng của mình để giải quyết vụ việc khi biết khách hàng đó có luật sư mà không thông báo cho luật sư đồng nghiệp bảo vệ quyền lợi hoặc luật sư đại diện cho khách hàng đó biết.

Privately discussing with clients having opposing interests with their clients to resolve the case when knowing those clients have lawyers without notifying fellow lawyers or representative lawyers of those clients.

21.4 Thuê, trả tiền môi giới khách hàng hoặc môi giới khách hàng cho đồng nghiệp để nhận tiền hoa hồng.

Hiring or paying clients brokerage money or broker clients for colleagues to receive money.

21.5 Thực hiện các hành vi nhằm mục đích giành giật khách hàng như:

Performing acts aimed at winning over clients such as:

    • So sánh năng lực nghề nghiệp, phân biệt vùng, miền hoạt động hành nghề của luật sư hoặc tổ chức hành nghề luật sư này với luật sư, tổ chức hành nghề luật sư khác;

Comparing professional level, distinguishing regions, areas of professional practice of lawyers or law-practicing organization of this lawyer with other lawyers, law-practicing organizations;

    • Xúi giục khách hàng từ chối đồng nghiệp để nhận vụ việc về cho mình hoặc xúi giục khách hàng khiếu nại, tố cáo luật sư đồng nghiệp;

Inciting clients to refuse colleagues in order to lawyers receive the cases or inciting clients to complain and denounce fellow lawyers;

    • Trực tiếp hoặc sử dụng các nhân viên của mình hoặc người khác làm người lôi kéo, dụ dỗ khách hàng, trước trụ sở các cơ quan tiến hành tố tụng, trại tạm giam, cơ quan nhà nước và các tổ chức khác.

Directly or using staffs or other persons to entice and seduce clients, in front of the headquarter of proceedings-conducting agencies, detentions, state agencies and other organizations.

21.6 Áp đặt hoặc cố tình chi phối làm ảnh hưởng đến tính độc lập, khách quan trong hành nghề của đồng nghiệp có quan hệ phụ thuộc với luật sư như quan hệ thầy – trò, cấp trên – cấp dưới, huyết thống, thân thuộc.

Imposing or deliberately dominating to affect the independence and objectivity in professional practice of colleagues who have dependent relationships with lawyers such as teacher – student, superior – subordinate, bloodline and relatives.

21.7 Có hành vi tạo thành phe, nhóm giữa các luật sư để cô lập đồng nghiệp trong quá trình hành nghề.

Doing acts of creating factions, groups between lawyers to isolate colleagues during professional practice.

21.8 Thực hiện việc liên kết, liên danh, thành lập nhóm luật sư hoạt động trái với quy định của pháp luật về luật sư, Điều lệ Liên đoàn Luật sư Việt Nam và Bộ Quy tắc đạo đức và Ứng xử nghề nghiệp luật sư.

Performing the association, partnership and establishing lawyers group operating against the laws on lawyers, the Statute of the Vietnam Bar Federation and Set of rules ethics and professional conduct of lawyers.

Quy tắc 22. Ứng xử của luật sư trong tổ chức hành nghề luật sư

Rule 22. Conduct of lawyers in law-practicing organizations

22.1 Luật sư tôn trọng, cư xử đúng mực với đồng nghiệp, nhân viên trong tổ chức hành nghề luật sư.

Lawyers must respect and behave properly with colleagues and staffs in law-practicing organizations.

22.2 Luật sư trong tổ chức hành nghề luật sư có biện pháp hợp lý trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình để đảm bảo tổ chức hành nghề luật sư, các thành viên trong tổ chức tuân thủ Bộ quy tắc; chịu trách nhiệm hoặc liên đới chịu trách nhiệm về hành vi vi phạm trong tổ chức hành nghề luật sư nếu:

Lawyers in a law-practicing organization takes reasonable measures within the scope of their rights and duties to ensure that the law-practicing organizations and its members comply with the Set of Rules; take responsibility or be jointly responsible for the violation in law-practicing organizations if:

    • Yêu cầu thực hiện hành vi vi phạm hoặc đồng ý với hành vi vi phạm đã xảy ra;

Request to perform a violation or agree with occurred violation;

    • Biết hành vi vi phạm đã xảy ra trong khi có thể tránh được hoặc giảm nhẹ hậu quả nhưng đã không có biện pháp khắc phục.

Know that violation occurred when the consequences could be avoided or mitigated but no remedy was taken.

Quy tắc 23. Ứng xử của luật sư hành nghề với tư cách cá nhân

Rule 23. The conduct of sole practitioner

23.1 Luật sư hành nghề với tư cách cá nhân không để bị chi phối bởi các yêu cầu, quy định nội bộ của cơ quan, tổ chức để làm trái pháp luật, Quy tắc Đạo đức và ứng xử nghề nghiệp luật sư.

Lawyers practicing independently must not be governed by internal requirements and regulations of agencies, organizations to act against the laws, the Set of Rules Ethics and Professional conduct of lawyers.

23.2 Trong phạm vi công việc được phân công phụ trách, nếu phát hiện cán bộ, nhân viên của cơ quan, tổ chức chuẩn bị hoặc đang có hành vi vi phạm pháp luật hoặc vi phạm quy định nội bộ của cơ quan, tổ chức có khả năng gây thiệt hại đến lợi ích của cơ quan, tổ chức, thì luật sư cần giải thích và đưa ra ý kiến để người đó từ bỏ ý định hoặc dừng hành vi vi phạm.

Trong trường hợp cần thiết, luật sư cần báo cáo với người có thẩm quyền trong cơ quan, tổ chức về hành vi vi phạm.

Within the scope of assigned works, if lawyers discover officers, employees of agencies, organizations are going to or having violations against the law or internal regulations of agencies, organizations, which can cause damages to the interests of agencies or organizations, lawyers need to explain and give opinions so that violated persons may give up the intention or terminate violations.

In necessary cases, lawyers need to report competent person in agencies or organizations as having violations.

Quy tắc 24. Quan hệ với người tập sự hành nghề luật sư

Rule 24. Relationship with law-practicing apprentices

24.1 Luật sư hướng dẫn phải tận tâm, nhiệt tình, trách nhiệm, đối xử tôn trọng với người tập sự hành nghề luật sư.

Guiding lawyers must be conscientious, enthusiastic, responsible and treat law-practicing apprentices respectfully.

24.2 Luật sư hướng dẫn không được làm những việc sau đây:

Guiding lawyers are not allowed to do the following works:

    • Phân biệt đối xử với những người tập sự hành nghề luật sư;

Discriminating against law-practicing apprentices;

    • Đòi hỏi tiền bạc, lợi ích khác từ người tập sự hành nghề luật sư;

Requesting money, other benefits from law-practicing apprentices;

    • Lợi dụng tư cách luật sư hướng dẫn để buộc người tập sự hành nghề luật sư phải làm những việc không thuộc phạm vi tập sự nhằm phục vụ cho lợi ích cá nhân của luật sư hướng dẫn;

Taking advantage of the capacity of guiding lawyers to force law-practicing apprentices to do things without the scope of the apprenticeship for serving the personal interests of guiding lawyers;

    • Xác nhận không phù hợp với quy định của pháp luật và quy định của Liên đoàn Luật sư Việt Nam vào Nhật ký tập sự hành nghề luật sư và Hồ sơ thực hành để người tập sự hành nghề luật sư được tham gia kiểm tra kết quả tập sự hành nghề luật sư.

Confirming non-compliance with the provisions of the law and the provisions of the Vietnam Bar Federation into the law-practicing apprenticeship Diary and practice File for the purpose of allowing law-practicing apprentices to participate in the test of results of law practice apprenticeship.

Quy tắc 25. Quan hệ của luật sư với tổ chức xã hội – nghề nghiệp luật sư

Rule 25. Relationship between lawyers and social – law profession organizations

25.1 Luật sư có nghĩa vụ tôn trọng, bảo vệ danh dự, uy tín, chấp hành Điều lệ, nghị quyết, quyết định, quy định, quy chế, nội quy của Liên đoàn Luật sư, Đoàn Luật sư.

Lawyers are obliged to respect, protect the honor, prestige and abide by the Charter, resolutions, decisions, provisions, regulations and rules of the Bar Association Federation and Bar Association.

25.2 Mọi ý kiến đóng góp của luật sư với Đoàn Luật sư, Liên đoàn Luật sư phải bảo đảm sự trung thực, khách quan, mang tính chất xây dựng, góp phần vào việc phát triển tổ chức xã hội – nghề nghiệp luật sư và nghề luật sư.

All opinions of lawyers to the Bar Association and Bar Association Federation must ensure honesty, objectivity, be constructive and contribute to the development of social – law profession organizations and lawyers.

 

Chương IV.

Chapter IV

 

QUAN HỆ VỚI CƠ QUAN, NGƯỜI TIẾN HÀNH TỐ TỤNG

RELATIONSHIP WITH PROCEEDING-CONDUCTING AUTHORITIES AND PERSONS

 

Quy tắc 26. Quy tắc chung khi tham gia tố tụng

Rule 26. General rules when participating in proceedings

26.1 Luật sư phải nghiêm chỉnh chấp hành nội quy và các quy định có liên quan trong quan hệ với các cơ quan tiến hành tố tụng; có thái độ hợp tác, lịch sự, tôn trọng những người tiến hành tố tụng mà luật sư tiếp xúc khi hành nghề; chủ động, tích cực thực hiện các quyền và nghĩa vụ của luật sư khi tham gia tố tụng theo quy định của pháp luật.

Lawyers must strictly abide by the rules and related regulations in relations with proceeding-conducting authorities; have a cooperative, polite, respectful attitude toward proceeding-conducting persons who lawyers contact while practicing profession; actively implementing rights and obligations of lawyers when participating in proceedings in accordance with the laws.

26.2 Khi cần trao đổi ý kiến về nghiệp vụ với người tiến hành tố tụng, những người hoặc cơ quan có thẩm quyền khác, luật sư phải giữ tính độc lập của nghề nghiệp luật sư để góp phần vào việc bảo vệ công lý, công bằng xã hội.

When it is necessary to discuss professional opinions with any proceeding-conducting person, other competent persons or agencies, lawyers must maintain the independence of law profession to contribute to the protection of justice and social balance.

Quy tắc 27. Ứng xử tại phiên tòa

Rule 27. Conduct in Court

27.1 Luật sư phải chấp hành nội quy phiên tòa, nội quy phòng xử án, tuân theo sự điều khiển của chủ tọa và hội đồng xét xử; tôn trọng người tiến hành tố tụng, luật sư đồng nghiệp và những người tham gia tố tụng khác; có thái độ ứng xử đúng mực khi tranh tụng tại phiên tòa; có thiện chí, hợp tác khi giải quyết các tình huống phát sinh ảnh hưởng đến trật tự hoặc tiến trình giải quyết vụ việc tại phiên tòa.

Lawyers must obey rules of the court hearings, rules of the court rooms, obey the control of the presiding judge and the trial panel; respect for proceeding-conducting person, fellow lawyers and other participants in proceedings; behave properly when arguing in court hearings; have good faith, cooperation when solving arisen situations affecting the order or process of settling the case in court hearing.

27.2 Trong luận cứ bào chữa, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của khách hàng, luật sư phải tôn trọng sự thật khách quan, đưa ra những tài liệu, chứng cứ pháp lý giúp cho việc giải quyết vụ án được khách quan, đúng pháp luật.

In the Justification defenses to protect clients’ legal rights and interests, lawyers must respect the objective truth, present legal documents and evidence to help in settling the cases objectively and comply with the laws.

27.3 Trước những hành vi sai trái, thái độ thiếu tôn trọng luật sư hay khách hàng của luật sư tại phiên tòa cũng như trong quá trình tố tụng, luật sư luôn giữ bình tĩnh và thực hiện quyền kiến nghị, yêu cầu thỏa đáng, hợp lệ, đúng pháp luật.

Before misconduct, disrespectful attitude for lawyers or lawyers’ client in the court hearing or in proceedings, lawyers must always keep calm and implement the right to propose and request satisfactorily, duly, legally.

Quy tắc 28. Những việc luật sư không được làm trong quan hệ với các cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng

Rule 28. Things lawyers must not do in relation with proceeding-conducting authorities and persons

28.1 Phát biểu những điều biết rõ là sai sự thật trên phương tiện thông tin đại chúng hoặc nơi công cộng về những vấn đề có liên quan đến vụ việc mà mình đảm nhận hoặc không đảm nhận nhằm gây ảnh hưởng xấu đến hoạt động của cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng.

Stating things that lawyers know clearly it is untruthful on the mass media or in public places about issues related to the cases they undertake or not undertake in order to adversely affect the operation of proceeding-conducting authorities and persons.

28.2 Phản ứng tiêu cực bằng hành vi tự ý bỏ về khi tham gia tố tụng.

Negative reacting by arbitrarily leaving while participating in proceedings.

28.3 Thực hiện các hành vi bị nghiêm cấm theo quy định của pháp luật.

Performing acts that are strictly prohibited by the laws.

 

Chương V

Chapter V

 

QUAN HỆ VỚI CÁC CƠ QUAN NHÀ NƯỚC, TỔ CHỨC, CÁ NHÂN KHÁC

RELATIONSHIP WITH OTHER GOVERNMENT AUTHORITIES, ORGANIZATIONS AND INDIVIDUALS

 

Quy tắc 29. Ứng xử của luật sư trong quan hệ với các cơ quan nhà nước khác

Rule 29. Conduct of lawyers in relation with other government authorities

29.1 Khi tiếp xúc, làm việc với các cơ quan nhà nước khác với tư cách đại diện ngoài tố tụng, luật sư tư vấn hoặc thực hiện tư vấn pháp lý khác cho khách hàng, luật sư phải tuân thủ quy định của pháp luật, nội quy, quy định của cơ quan nhà nước và quy định phù hợp của Chương IV Bộ Quy tắc này.

When contacting, working with other governmental authorities in the capacity of non-litigation representatives, consulting lawyers or providing other legal services for clients, lawyers must comply with the provisions of law, rules, regulations of government authorities and appropriate regulations of Chapter IV of this Set of rules.

29.2 Trong quan hệ với cơ quan nhà nước khác để thực hiện công việc cho khách hàng, luật sư cần có thái độ lịch sự, tôn trọng, kiên quyết từ chối những hành vi móc nối, trung gian trái pháp luật, trái đạo đức và lương tâm nghề nghiệp.

In relation with other governmental authorities, to perform works for clients, lawyers need to have polite, respectful attitude, resolutely refuse acts of linking, mediating illegally and unethical, professional conscience acts.

29.3 Luật sư có nghĩa vụ giải thích cho khách hàng các quy định pháp luật về khiếu nại, tố cáo; khuyến nghị khách hàng tránh việc khiếu nại, tố cáo trái pháp luật, gây tốn kém thời gian, tiền bạc của Nhà nước, người dân và ảnh hưởng đến quản lý nhà nước về trật tự an toàn xã hội.

Lawyers are obliged to explain clients the law provisions on complaints and denunciations; recommend customers to avoid complaining and denunciating illegally, which wastes time and money of government, people and affects the state’s management of safety and order of society.

Quy tắc 30. Ứng xử trong quan hệ với các tổ chức, cá nhân khác

Rule 30. Conducting in relationships with other authorities and individuals

Khi tiếp xúc, làm việc với các tổ chức, cá nhân khác, luật sư có thái độ ứng xử đúng mực, không được có lời nói, việc làm ảnh hưởng đến uy tín và lợi ích hợp pháp của các tổ chức, cá nhân đó.

When working with other authorities and individuals, lawyers must have proper behavior, not say words or acts that adversely affect the reputation and legal interests of those authorities and individuals.

 

Chương VI.

Chapter VI.

 

CÁC QUY TẮC KHÁC

OTHER RULES

 

Quy tắc 31. Thông tin, truyền thông

Rule 31. Information and communications

31.1 Khi cung cấp thông tin cho báo chí, phương tiện thông tin đại chúng, sử dụng mạng xã hội, luật sư phải trung thực, chính xác, khách quan.

When providing information to the press, mass media or using social networks, lawyers must be truthful, accurate and objective.

31.2 Luật sư không được sử dụng báo chí, phương tiện thông tin đại chúng, mạng xã hội để cố ý phản ánh sai sự thật nhằm mục đích cá nhân, động cơ khác hoặc tạo dư luận nhằm bảo vệ quyền lợi không hợp pháp của khách hàng hoặc phát ngôn gây ảnh hưởng đến an ninh, lợi ích quốc gia và lợi ích công cộng.

Lawyers are not allowed to use the press, mass media, social networks to intentionally report untruth for personal purposes or other motives or create public opinion to protect the illegal rights of clients or state affecting security, interests of nation and public.

31.3 Luật sư không được viết bài, phát biểu trên báo chí, phương tiện thông tin đại chúng, tại nơi công cộng, sử dụng mạng xã hội để nói xấu, công kích, bài xích hoặc gây chia rẽ, mất đoàn kết nội bộ giữa các luật sư đồng nghiệp; gây tổn hại đến danh dự, uy tín của luật sư, nghề luật sư, Đoàn Luật sư và Liên đoàn Luật sư Việt Nam.

Lawyers are not allowed to write articles, speeches on the press, mass media, public places, use social networks to defame, attack, chastise or cause divisions, internal disunity between fellow lawyers; harm the honor and reputation of lawyers, the law profession, the Bar Association and the Vietnam Bar Federation.

Quy tắc 32. Quảng cáo

Rule 32. Advertisement

32.1 Khi quảng cáo về hoạt động hành nghề luật sư, luật sư không được cung cấp những thông tin không có thật hoặc thông tin gây hiểu nhầm. Luật sư phải chịu trách nhiệm khi cam kết trong quảng cáo về chất lượng dịch vụ luật sư.

When advertising in law practice activities, lawyers are not allowed to provide untruthful or misleading information. Lawyers are responsible for commitment in advertisements of the quality of lawyer services.

32.2 Luật sư không được thực hiện việc quảng cáo làm ảnh hưởng đến danh dự, uy tín của đội ngũ luật sư, nghề luật sư

Lawyers are not allowed to advertise to affect the honor and reputation of lawyers’ team and lawyer profession.

 

(Bản Tiếng Việt thuộc bản quyền của Liên đoàn Luật sư Việt Nam.

Bản Tiếng Anh thuộc bản quyền của Công ty Luật TNHH Quốc tế TNTP và Các Cộng sự.)

 

Công ty Luật TNHH Quốc tế TNTP và Các Cộng sự

Tầng 4 số 200 phố Nguyễn Lương Bằng, Phường Quang Trung, Quận Đống Đa, Hà Nội.

Luật sư Nguyễn Thanh Hà

Email: ha.nguyen@tntplaw.com

BÌNH LUẬN ÁN LỆ SỐ 21/2018/AL (Do Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân Tối cao thông qua ngày 17/10/2018 được công bố theo Quyết định số 269/QĐ-CA ngày 06/11/2018 của Chánh án Tòa án nhân dân Tối cao)

Trong hoạt động kinh doanh, việc giao kết hợp đồng là điều kiện bắt buộc để xác định quyền và nghĩa vụ của các bên. Tuy nhiên trên thực tế, rất nhiều hợp đồng không quy định về điều kiện chấm dứt hợp đồng. Điều này dẫn đến việc một bên tùy ý đơn phương chấm dứt trước thời hạn mà không đảm bảo một thời gian hợp lý. Tuy nhiên như nào thì được coi là thời gian hợp lý? Trong trường hợp này, nếu thiệt hại phát sinh thì khoản bồi thường thiệt hại sẽ được tính như thế nào? Thông qua Án lệ số 21/2018/AL, TNTP xin chia sẻ những bình luận xoay quanh việc đơn phương chấm dứt hợp đồng trước thời hạn, qua đó rút ra kinh nghiệm trong việc soạn thảo hợp đồng để hạn chế xảy ra tranh chấp và phương án giải quyết tranh chấp liên quan đến việc đơn phương chấm dứt hợp đồng.

TÓM TẮT ÁN LỆ

Công ty TNHH D (“Công ty D”) đã ký Hợp đồng cho thuê tài sản (“Hợp đồng”) với Công ty Cổ phần C (“Công ty C”) về việc Công ty D cho Công ty C thuê hai đầu máy lai dắt tàu thủy ra vào cảng. Hợp đồng có quy định về thời hạn nhưng không quy định về điều kiện chấm dứt hợp đồng. Công ty C đã bất ngờ thông báo chấm dứt Hợp đồng trước thời hạn. Thời gian từ khi Công ty C ra thông báo đến khi chấm dứt Hợp đồng là 03 ngày. Công ty D yêu cầu Công ty C tiến hành thanh toán nốt tiền thuê tương ứng với thời gian còn lại của Hợp đồng, tuy nhiên Công ty C đã không thanh toán cho Công ty D. Các bên không thương lượng được nên Công ty D đã khởi kiện và yêu cầu Công ty C phải thanh toán cho Công ty D số tiền 403.000.000 đồng.

Tại phiên tòa sơ thẩm, TAND tỉnh Quảng Ninh ra bản án Sơ thẩm 01 không chấp nhận yêu cầu của Công ty D. Công ty D có đơn kháng cáo bản án sơ thẩm, tuy nhiên Tòa Phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại Hà Nội lại ra Quyết định 87 không chấp nhận kháng cáo với lý do kháng cáo quá thời hạn.

Công ty D tiếp tục có đơn đề nghị xem xét lại theo thủ tục giám đốc thẩm đối với quyết định của Tòa phúc thẩm nêu trên. Hội đồng thẩm phán TAND tối cao xét xử theo thủ tục giám đốc thẩm tuyên hủy Quyết định 87 của Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại Hà Nội và Bản án sơ thẩm 01 của TAND tỉnh Quảng Ninh; giao hồ sơ vụ án cho TAND tỉnh Quảng Ninh xét xử lại theo đúng quy định của pháp luật.

Theo đó, Hội đồng thẩm phán TAND tối cao nhận định: Thời gian Công ty cổ phần C ra văn bản thông báo đến khi chấm dứt hợp đồng là quá ngắn, đã gây thiệt hại cho Công ty D do không thể có được hợp đồng khác thay thế ngay. Lỗi thuộc về Công ty cổ phần C nên phải chịu trách nhiệm đối với khoản thiệt hại đã gây ra cho Công ty D. Thiệt hại thực tế cần xem xét là khoản tiền cho thuê phương tiện trong thời gian còn lại của hợp đồng.

NHẬN XÉT ÁN LỆ

Dựa trên phần tóm tắt án lệ, TNTP có một vài ý kiến nhận xét như sau:

Về thời gian thông báo chấm dứt hợp đồng

 Về căn cứ pháp lý: Căn cứ vào Khoản 1 Điều 428 Bộ luật Dân sự 2015, một bên có quyền đơn phương chấm dứt thực hiện hợp đồng và không phải bồi thường thiệt hại khi bên kia vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ trong hợp đồng hoặc các bên có thỏa thuận hoặc pháp luật có quy định.

Căn cứ vào Khoản 5 Điều 428 Bộ luật Dân sự 2015, trường hợp việc đơn phương chấm dứt thực hiện hợp đồng không có căn cứ quy định tại khoản 1 Điều 428 thì bên đơn phương chấm dứt thực hiện hợp đồng được xác định là bên vi phạm nghĩa vụ và phải thực hiện trách nhiệm dân sự.

Trong trường hợp này, bên đơn phương chấm dứt thực hiện hợp đồng là Công ty C. Tuy nhiên, Công ty D không vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ trong hợp đồng, các bên không có thỏa thuận về điều kiện mà Công ty C được quyền đơn phương chấm dứt thực hiện hợp đồng. Ngoài ra, Công ty C chỉ thông báo trước Công ty D 03 ngày trước khi chấm dứt hợp đồng. Như vậy, việc Công ty C đơn phương chấm dứt hợp đồng trước thời hạn không thuộc Khoản 1 Điều 428 Bộ luật Dân sự 2015.

Bên cạnh đó, theo nhận định của Tòa án, thời gian Công ty C ra văn bản thông báo chỉ trước 03 ngày so với thời điểm chấm dứt hợp đồng là quá ngắn. Như vậy, có thể xác định rõ quan điểm của Tòa án thời hạn thông báo trước khi đơn phương chấm dứt Hợp đồng 03 ngày là không hợp lý và do đó lỗi thuộc về Công ty C.

Từ đây, chúng ta có thể thấy rằng thời hạn thông báo trước khi đơn phương chấm dứt hợp đồng từ 03 ngày trở xuống sẽ được coi là không hợp lý. Nếu bất kỳ một bên tham gia trong hợp đồng chỉ thông báo trước 03 ngày việc đơn phương chấm dứt hợp đồng thì sẽ bị xác định là thời hạn thông báo trước không hợp lý và bị xác định có lỗi trong việc chấm dứt hợp đồng.

Tuy nhiên, Án Lệ 21 lại bỏ ngỏ việc xác định thời hạn thông báo trước bao lâu sẽ được xem là thông báo trước thời hạn hợp lý. Do đó, Trong trường hợp một bên thông báo chấm dứt hợp đồng trước 05 ngày hoặc 07 ngày hoặc 10 ngày thì cũng chưa có căn cứ rõ ràng là thời hạn nào là thời hạn hợp lý để thông báo trước việc chấm dứt hợp đồng.

Xác định thiệt hại thực tế

Để có thể chứng minh yêu cầu bồi thường thiệt hại là có căn cứ, ta cần phải chứng minh yếu tố lỗi, căn cứ pháp lý và có thiệt hại thực tế. Trong đó, yếu tố lỗi và căn cứ pháp lý chứng minh việc Công ty C vi phạm đã được nêu ở phần trên. Trong phần này, ta cần chứng minh thiệt hại thực tế của Công ty D.

Khoản 2 Điều 302 Luật Thương Mại 2005 có quy định:

Điều 302. Bồi thường thiệt hại

  1. Giá trị bồi thường thiệt hại bao gồm giá trị tổn thất thực tế, trực tiếp mà bên bị vi phạm phải chịu do bên vi phạm gây ra và khoản lợi trực tiếp mà bên bị vi phạm đáng lẽ được hưởng nếu không có hành vi vi phạm.”

Trong nội dung tranh chấp tại Án lệ 21/2018/AL, Hội đồng thẩm phán TAND tối cao đã nhận định rằng thiệt hại thực tế cần xem xét là khoản tiền cho thuê phương tiện trong thời gian còn lại của hợp đồng bởi vì đó là khoản lợi trực tiếp mà Công ty D đáng lẽ được hưởng nếu Công ty C không chấm dứt hợp đồng trước thời hạn.

Đây chính là quan điểm của Tòa án Nhân dân Tối cao về việc xác định thiệt hại thực tế để áp dụng xét xử trong các trường hợp tranh chấp tương tự.

ÁP DỤNG THỰC TẾ

Như đã phân tích ở trên, mặc dù kết luận của Tòa án Nhân dân Tối cao vẫn còn nhiều vấn đề chưa rõ ràng tuy nhiên, TNTP cho rằng dựa trên nội dung Án lệ 21/2018/AL chúng ta rút ra được một vài kinh nghiệm để trong việc soạn thảo hợp đồng và giải quyết tranh chấp, cụ thể:

  • Khi soạn thảo hợp đồng, các bên nên quy định rõ ràng về thời gian thông báo trước khi đơn phương chấm dứt hợp đồng để tránh việc tranh chấp giữa các bên.
  • Trường hợp một bên tham gia hợp đồng muốn đơn phương chấm dứt hợp đồng thì thời hạn báo trước việc đơn phương chấm dứt hợp đồng nên từ 15 ngày trở lên để đảm bảo không quá ngắn và không ngắn hơn 03 ngày như được nêu trong Án lệ số 21/2018/AL. Tuy nhiên, tuỳ vào lĩnh vực khác nhau, thời gian báo trước có thể sẽ bị thay đổi. Do đó, trước khi quyết định thông báo chấm dứt hợp đồng, bên tham gia hợp đồng nên tính toán thời gian hợp lý.
  • Bên bị thiệt hại do hành vi đơn phương chấm dứt hợp đồng trái pháp luật sẽ có quyền yêu cầu mức bồi thường tương đương toàn bộ số tiền có khả năng thu được từ thời điểm Bên vi phạm ban hành thông báo đơn phương chấm dứt hợp đồng cho đến khi hết thời hạn hợp đồng đã ký kết giữa các bên.

Trên đây là bài bình luận Án lệ số 21/2018/AL của TNTP. Hy vọng rằng bài viết này hữu ích với để giúp doanh nghiệp hạn chế các rủi ro trong việc soạn thảo và giải quyết tranh chấp Hợp đồng.

Trân trọng.

Công ty Luật TNHH Quốc tế TNTP và Các Cộng sự

Tầng 4, Số 200 Nguyễn Lương Bằng, Phường Quang Trung, Quận Đống Đa, Hà Nội

Luật sư Nguyễn Thanh Hà

Email: ha.nguyen@tntplaw.com

Kỹ năng soạn thảo văn bản trong hoạt động của doanh nghiệp

Hiện nay, trong các doanh nghiệp, người sử dụng lao động đều đòi hỏi người lao động có kỹ năng soạn thảo văn bản như hợp đồng, công văn, biên bản nghiệm thu, thư xác nhận, … Đây là một kỹ năng cơ bản và quan trọng vì chỉ khi soạn thảo văn bản tốt thì doanh nghiệp mới có thể truyền đạt chính xác, rõ ràng các quan điểm, ý kiến đến khách hàng cũng như các đối tượng khác. Do đó, bài viết này đưa ra những kỹ năng cơ bản trong việc soạn thảo văn bản nhằm đảm bảo hình thức và nội dung phù hợp với đối tượng cũng như mục đích soạn văn bản.

Hình thức của văn bản

Văn bản nộp cho Cơ quan nhà nước có thẩm quyền

Đối với văn bản nộp cho Cơ quan nhà nước, thể thức trình bày văn bản được quy định tại Nghị định 30/2020/NĐ-CP ngày 05/03/2020. Trong đó, Nghị định này hướng dẫn phần trình bày văn bản cụ thể từ việc căn lề, cỡ chữ, font chữ cho đến khoảng cách dãn dòng, cách viết tên việt tắt các cơ quan nhà nước có thẩm quyền, …

Khi gửi văn bản tới các cơ quan nhà nước, ta phải tuân thủ mọi quy định pháp luật về loại và thể thức văn bản. Đặc biệt trong một số trường hợp thực hiện thủ tục hành chính, nếu các văn bản trình bày không đúng theo mẫu quy định thì các cơ quan nhà nước có quyền trả lại hồ sơ hoặc yêu cầu người nộp hồ sơ soạn thảo văn bản đúng theo quy định pháp luật.

Văn bản trong quá trình trao đổi với đối tác, khách hàng

Không giống như những văn bản gửi đến cơ quan nhà nước có thẩm quyền, pháp luật không quy định về hình thức các văn bản trong quá trình trao đổi với đối tác, khách hàng. Do đó, người soạn văn bản không bị gò bó trong khuôn mẫu mà được tự do trình bày cho phù hợp. Tuy nhiên sự tự do trình bày cũng cần phải tuân theo các nguyên tắc chung cho việc soạn thảo để đảm bảo một văn bản đảm bảo tính thẩm mỹ, cụ thể:

  • Sử dụng Font chữ và cỡ chữ: Văn bản nên sử dụng font chữ Times New Roman cho nét chữ sắc và đều; cỡ chữ cho tiêu đề của văn bản là 14 để làm nổi bật tên loại văn bản và cỡ chữ cho phần nội dung của văn bản là 12 vì đây là cỡ chữ cơ bản thường được dùng khi soạn thảo văn bản.
  • Chia văn bản thành nhiều phần với tiêu đề phụ: Độ dài của văn bản sẽ ảnh hưởng đến việc tiếp thu thông tin của người đọc. Do đó để người đọc tiếp thu dễ dàng hơn thì văn bản nên được chia thành nhiều phần với đề mục. Việc này đảm bảo người đọc nắm bắt được nội dung từng phần và không bị “lạc” trong một văn bản dài lê thê.
  • Khoảng cách giữa các dòng: Đối với các văn bản dài trên 1000 chữ thì việc tạo khoảng cách hợp lý giữa các dòng giúp văn bản trở nên dễ nhìn hơn.

 Nội dung văn bản

Để văn bản có thể truyền đạt đúng quan điểm, ý kiến của người soạn thảo, ngoài những yêu cầu về hình thức, văn bản còn phải đáp ứng được các yêu cầu về nội dung như sau:

Tính logic

Mỗi văn bản đều có mục đích nhất định, ví dụ như công văn trả lời, thư ngỏ, hay đơn khởi kiện, hợp đồng dịch vụ,… Tương ứng với mục đích của văn bản mà cá nhân, cơ quan, tổ chức nhận văn bản có thể là Tòa án, Viện kiểm sát, cơ quan nhà nước có thẩm quyền, hoặc là khách hàng, đối tác. Tuy nhiên, dù mục đích soạn thảo là gì thì văn bản cũng phải thể hiện rõ được điều đó để tránh việc người đọc hiểu sai ý nghĩa mà văn bản muốn truyền tải.

Một văn bản phải đảm bảo trật tự logic, nội dung văn bản phải có sự liên kết chặt chẽ. Mỗi phần có thể làm rõ một vấn đề nhưng về tổng thể phải thể hiện được nội dung chính của văn bản. Nếu nôi dung các phần trong văn bản không liên quan đến nhau hay không giúp làm rõ cho mục đích của văn bản, thậm chí mâu thuẫn với nhau thì văn bản sẽ không đạt được mục đích truyền tải nội dung tới người đọc.

Tính súc tích

Văn bản cần phải truyền đạt nội dung một cách hiệu quả nhưng không được quá dài dòng. Văn bản càng dài thì người đọc càng khó nắm bắt được nội dung chính, văn bản quá ngắn lại không cung cấp đầy đủ thông tin gây khó hiểu cho người đọc. Do đó, văn bản cần có sự súc tích, diễn đạt đầy đủ nội dung mà không sử dụng quá nhiều từ thừa, trực tiếp đi vào vấn đề để người đọc nắm bắt được nội dung của văn bản một cách hiệu quả nhất có thể.

Tính chính xác

Tính chính xác là yếu tố quan trọng hàng đầu trong cả văn nói lẫn văn viết vì chỉ một từ bị hiểu sai có thể gây hiểu nhầm, hoặc thậm chí có thể dẫn đến tranh chấp, mâu thuẫn giữa các bên. Do đó khi soạn thảo văn bản, người soạn phải sử dụng từ ngữ chính xác, tránh dùng các từ đa nghĩa có thể khiến người đọc hiểu sai. Đồng thời, việc lựa chọn thuật ngữ pháp lý và trích dẫn nội dung từ các văn bản quy phạm pháp luật (nếu có) cũng đòi hỏi người soạn phải tìm hiểu kỹ càng và giải thích ý nghĩa của thuật ngữ để tránh làm người đọc hiểu sai tinh thần pháp luật.

Sử dụng ngôn ngữ

Mỗi văn bản có mục đích và đối tượng hướng đến khác nhau, do đó người soạn cần sử dụng ngôn ngữ sao cho phù hợp. Ví dụ như ngôn ngữ trong một Thư phản hồi ý kiến của khách hàng sẽ khác việc soan Yêu cầu thanh toán. Thư phản hồi ý kiến của khách hàng nên sử dụng ngôn từ nhã nhặn với mục đích giải đáp thắc mắc của khách hàng. Còn Yêu cầu thanh toán cần thể hiện rõ ràng quan điểm đề nghị, sử dụng ngôn từ mạnh mẽ, cương quyết không nhượng bộ để yêu cầu bên nợ phải thanh toán. Việc sử dụng ngôn ngữ có thể ảnh hưởng đến hiệu quả truyền đạt của văn bản, làm cho người nhận hiểu rõ quan điểm của người soạn.

Là một trong những kỹ năng cơ bản nhất, nhưng kỹ năng soạn thảo văn bản pháp lý đóng vai trò vô cùng quan trọng trong quá trình làm việc của các cá nhân và doanh nghiệp. Xã hội càng phát triển thì càng đặt ra những tiêu chuẩn khắt khe, yêu cầu sự chính xác, chuyên nghiệp trong công việc. Kỹ năng soạn thảo văn bản cũng không nằm ngoài xu thế chung ấy. Do đó trau dồi và nâng cao kỹ năng soạn thảo văn bản là yêu cầu cần thiết và bắt buộc với tất cả mọi người và các doanh nghiệp hiện nay.

Trên đây là các chia sẻ pháp lý của TNTP về các kỹ năng soạn thảo văn bản trong hoạt động của doanh nghiệp. Mong bài viết này có ích với các bạn.

Trân trọng.

Công ty Luật TNHH Quốc tế TNTP và Các Cộng sự

Tầng 4 số 200 Phố Nguyễn Lương Bằng, Phường Quang Trung, Quận Đống Đa, Hà Nội

Luật sư Nguyễn Thanh Hà

Email: ha.nguyen@tntplaw.com

Giải quyết tranh chấp: Cuộc chiến tâm lý hay Cuộc chiến pháp lý

Hiện nay, tranh chấp phát sinh trong các lĩnh vực (thương mại, xây dựng,..) xảy ra ngày càng nhiều. Tuy nhiên, số lượng vụ việc được giải quyết tại các cơ quan có thẩm quyền như Tòa án và Trọng tài lại chiếm tỷ lệ thấp so với số lượng vụ việc phát sinh trên thực tế. Bởi các bên thường có tâm lý ngại ra Tòa án hoặc Trọng tài giải quyết tranh chấp. Bên bị thiệt hại thường cố gắng giải quyết bằng thương lượng và hòa giải. Thậm chí, nhiều Bên bị thiệt hại chấp nhận và không tiến hành bất kỳ hành động pháp lý nào đề đòi lại quyền của mình.

Vậy tại sao Bên bị thiệt hại lại cam chịu như vậy và giải pháp nào cho Bên bị thiệt hại đòi lại quyền và lợi ích hợp pháp lẽ ra thuộc về mình? Bài viết dưới đây sẽ là câu trả lời cho tất cả.

Tâm lý ngại tiến hành thủ tục tố tụng của Bên bị thiệt hại

Khi phát sinh tranh chấp, bên bị thiệt hại trước tiên sẽ tìm cách thương lượng và hòa giải. Nếu giải pháp thương lượng và hòa giải không có hiệu quả, Bên bị thiệt hại cần tiến hành các thủ tục tố tụng tại Cơ quan có thẩm quyền để đòi lại quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Tuy nhiên, Bên bị thiệt hại thường không làm vậy các lý do sau:

(a) Lo sợ hồ sơ và các chứng cứ, tài liệu không đủ để khởi kiện.

(b) Lo sợ Tòa án không giải quyết vụ việc của mình một cách khách quan.

(c) Lo sợ thời gian khởi kiện bị kéo dài mà không rõ kết quả trong tương lai có như mình mong muốn hay không?

(d) Lo sợ ảnh hưởng đến danh dự, uy tín và thương hiệu của cá nhân, tổ chức trong và sau khi khởi kiện …

(e) Sợ bị mất tài sản và sợ không đòi được tài sản.

Do đó, mặc dù Bên bị thiệt hại đã phải gánh chịu nhiều thiệt hại to lớn, thậm chí đánh mất toàn bộ tài sản tích cóp cả đời hoặc thiệt hại lớn cho tổ chức nhưng Bên gây thiệt hại vẫn thoải mái tiếp tục gây thiệt hại cho nhiều bên khác và cuối cùng thì “người tốt luôn là người thua thiệt và người xấu thì luôn hưởng lợi”.

Giải pháp nào cho Bên Bị thiệt hại

Đầu tiên, Bên bị thiệt hại cần nhận ra là sự thiệt hại đã xảy ra rồi. Đó là sự thật khách quan và không thể thay đổi được. Do đó, ta phải giữ đủ bình tĩnh để xác định tiếp theo mình cần làm gì. Thương lượng và hòa giải là biện pháp tốt nhất. Tuy nhiên, nếu không hiệu quả thì hãy coi việc tiến hành thủ tục tố tụng là cần làm đề đòi lại quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Bên bị thiệt hại cũng nên bĩnh tình để làm rõ các yếu tố như:

(i) Hồ sơ mình ko rõ ràng thì thu thập thêm tài liệu.

(ii) Tòa án là cơ quan pháp luật luôn phải tuân theo pháp luật và không thể đổi trắng thay đen.

(iii) Bên bị thiệt hại khởi kiện và thủ tục tố tụng có thể kéo dài. Nhưng nếu mình không tiến hành thủ tục tố tụng thì chắc chắn không thể đòi lại quyền lợi đã mất.

(iv) Mọi người sớm muộn sẽ biết sự việc và Bên bị thiệt hại không thể tránh được uy tín, danh dự bị ảnh hưởng.

Khi giải quyết tranh chấp, nhiều khi vấn đề pháp lý không phải là lớn nhất mà chính là vấn đề tâm lý. Bên bị thiệt hại phải vượt qua được tâm lý sợ hãi của mình. Bình tĩnh mới có thể giải quyết vụ việc hiệu quả nhất. Khi đã vượt qua được tâm lý sợ hãi và sẵn sàng đối mặt với các thủ tục tố tụng tốn kém thời gian và chi phí trong tương lai là lúc Bên gây thiệt hại lo sợ và giúp Bên bị thiệt hại có cơ hội lớn hơn để lấy lại những gì đã mất.

Kết luận:

Tố tụng là thủ tục có thể chưa chắc bảo vệ quyền lợi hợp pháp của Người bị hại. Nhưng thủ tục tố tụng chắc chắn làm tăng khả năng bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp. Người tốt sẽ ít bị thiệt hơn. Và người xấu sẽ không thể mãi được lợi. Xã hội sẽ tốt đẹp hơn. Người xấu sẽ phải chịu hậu quả lớn vì gây thiệt hại cho NGƯỜI TỐT MẠNH MẼ.

Và nhiều khi Giải quyết tranh chấp là Cuộc chiến tâm lý chứ không phải cuộc chiến pháp lý.

Trên đây là các chia sẻ của chúng tôi về Tâm lý của Bên bị thiệt hại khi GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP. Mong rằng bài viết này hữu ích với các bạn.

 

Có thể bạn quan tâm đến: Tranh chấp hợp đồng hợp tác đầu tư

 

Công ty Luật TNHH Quốc tế TNTP và Các Cộng sự

Tầng 4, Số 200 Nguyễn Lương Bằng, Phường Quang Trung, Quận Đống Đa, Hà Nội

Luật sư Nguyễn Thanh Hà

Email: ha.nguyen@tntplaw.com

 

 

Có được phép áp dụng điều khoản về sự kiện bất khả kháng đối với dịch bệnh COVID-19?

Năm 2020, kinh tế thế giới  gặp khủng hoảng nghiêm trọng do sự bùng phát của dịch bệnh Covid-19. Sự xuất hiện của “kẻ gây rối” vô hình này đã ảnh hưởng tới tính ổn định nhất thời của nền kinh tế thị trường khi các quốc gia đóng cửa, thắt chặt biên giới, việc giao thương giữa các quốc gia, giữa các vùng miền bị giảm sút nghiêm trọng. Trước tình hình này, nhiều cá nhân, doanh nghiệp đã coi dịch bệnh Covid-19 như là một sự kiện bất khả kháng để được miễn trách nhiệm khi thực hiện các nghĩa vụ theo Hợp đồng. Vậy quy định của pháp luật hiện hành về sự kiện bất khả kháng là gì và Có được phép áp dụng điều khoản về sự kiện bất khả kháng đối với dịch bệnh COVID-19?

Sự kiện bất khả kháng và hậu quả pháp lý của sự kiện bất khả kháng.

Khoản 1 Điều 156 của Bộ luật Dân sự 2015 quy định: “Sự kiện bất khả kháng là sự kiện xảy ra một cách khách quan không thể lường trước được và không thể khắc phục được mặc dù đã áp dụng mọi biện pháp cần thiết và khả năng cho phép”. Nghĩa là, để coi một sự kiện là bất khả kháng, sự kiện đó cần đáp ứng đồng thời các điều kiện dưới đây.

Sự kiện xảy ra một cách khách quan.

Sự kiện xảy ra một cách khách quan là sự kiện xuất phát từ các yếu tố bên ngoài mà không xuất phát từ bất kỳ bên nào giao kết Hợp đồng.

Sự kiện không thể lường trước được.

Sự kiện không thể lường trước được khi sự kiện đó xảy ra nằm ngoài dự đoán của các bên tại thời điểm giao kết Hợp đồng.

Bên bị ảnh hưởng không thể khắc phục được mặc dù đã áp dụng mọi biện pháp cần thiết và khả năng cho phép.

Về hậu quả pháp lý của sự kiện bất khả kháng, Khoản 2 Điều 351 của Bộ luật Dân sự 2015 quy định đã quy định rõ. “Trường hợp bên có nghĩa vụ không thực hiện đúng nghĩa vụ do sự kiện bất khả kháng thì không phải chịu trách nhiệm dân sự, trừ trường hợp có thỏa thuận khác hoặc pháp luật có quy định khác”. Như vậy, khi xảy ra sự kiện bất khả kháng thì bên bị ảnh hưởng được miễn trách nhiệm, miễn nghĩa vụ thực hiện Hợp đồng với bên kia, trừ trường hợp các bên thỏa thuận khác hoặc pháp luật có quy định khác.

Từ những cơ sở pháp lý trên, chúng ta nên nhìn nhận như thế nào về dịch bệnh Covid-19? Liệu dịch bệnh Covid-19 có được coi là “phao cứu sinh” khi giải trừ nghĩa vụ cho bên bị ảnh hưởng hay không?

Dịch bệnh Covid-19 dưới góc nhìn pháp lý và việc áp dụng sự kiện bất khả kháng trên thực tế.

Có thể thấy rằng, Covid-19 xảy ra như một sự kiện khách quan và không thể lường trước được. Dẫn đến nhiều thiệt hại về người và tài sản mà hầu như không thể khắc phục được. Do đó, chúng tôi cho rằng Covid-19 có thể được coi là một sự kiện bất khả kháng. Vậy khi Covid-19 được coi là sự kiện bất khả kháng, thì sự kiện bất khả kháng này ảnh hưởng như thế nào đến việc thực hiện Hợp đồng và các giao dịch khác của doanh nghiệp?

Dịch bệnh Covid-19 xuất hiện như một làn sóng lớn làm chao đảo nền kinh tế và vô hình chung chia tách các doanh nghiệp thành hai (02) loại:

Doanh nghiệp không chịu ảnh hưởng từ Covid-19:

Dịch bệnh Covid-19 bùng phát đe dọa nền kinh tế toàn cầu. Tuy nhiên vẫn có những doanh nghiệp tiếp tục hoạt động kinh doanh ổn định với mức doanh thu tương tự như mức doanh thu của cùng kỳ năm ngoái. Đây là các doanh nghiệp không chịu ảnh hưởng từ Covid-19. Do đó, chúng tôi cho rằng điều khoản về sự kiện bất khả kháng không cần thiết được áp dụng đối với các doanh nghiệp này.

Một số doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực y tế, đặc biệt là lĩnh vực kinh doanh thiết bị y tế, hoặc kinh doanh, điều phối hoạt động sàn giao dịch thương mại điện tử, các mạng xã hội, phần mềm, ứng dụng điện tử… có hoạt động kinh doanh tốt hơn. Do nhu cầu về sức khỏe, giải trí, mua sắm tại nhà tăng cao. Vì vậy, theo quan điểm của chúng tôi, điều khoản về sự kiện bất khả kháng không cần thiết được áp dụng đối với những doanh nghiệp này.

Doanh nghiệp chịu ảnh hưởng từ Covid-19:

Trái lại, chúng tôi cho rằng điều khoản về sự kiện bất khả kháng cần được áp dụng đối với các doanh nghiệp chịu ảnh hưởng bất lợi từ Covid-19. Đây có thể là các doanh nghiệp đang gặp khó khăn về tài chính, thiệt hại nặng nề. Hoặc thậm chí đang đứng trên bờ vực phá sản. Buộc giải thể do ảnh hưởng trực tiếp từ dịch bệnh Covid-19. Ngoài ra còn chịu ảnh hưởng trực tiếp từ chính sách của Chính phủ có liên quan đến việc ngăn chặn dịch bệnh.

Đầu tháng 4/ 2020, Chính phủ ban hành chính sách giãn cách xã hội để phòng ngừa dịch bệnh. Nhiều doanh nghiệp bị ảnh hưởng bất lợi trực tiếp từ chính sách giãn cách xã hội.  Nguồn tài chính bị sụt giảm từ việc đóng cửa, đóng băng hoạt động kinh doanh. Ví dụ như các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực nhà hàng, khách sạn, du lịch, …

Trong thời điểm khủng hoảng của các doanh nghiệp này, việc áp dụng điều khoản về sự kiện bất khả kháng sẽ rất cần thiết khi giải trừ nghĩa vụ của bên chịu ảnh hưởng, góp phần làm giảm gánh nặng thực hiện nghĩa vụ cho doanh nghiệp theo các Hợp đồng đã giao kết.

Kết luận:

Như vậy, theo ý kiến của chúng tôi, dịch bệnh Covid-19 có thể được coi là sự kiện bất khả kháng. Nhưng không phải doanh nghiệp nào cũng có thể áp dụng điều khoản về sự kiện bất khả kháng. Việc áp dụng này chỉ cần thiết đối với các doanh nghiệp chịu ảnh hưởng bất lợi trực tiếp từ dịch bệnh. Ngoài ra, đối với các doanh nghiệp chịu ảnh hưởng có lợi hoặc không chịu ảnh hưởng từ Covid-19, cần nghiêm túc tuân thủ thực hiện các điều khoản tại Hợp đồng đã giao kết và tạo điều kiện hỗ trợ những doanh nghiệp chịu ảnh hưởng bất lợi từ dịch bệnh. Hướng đến sự ổn định kinh tế, ổn định xã hội hậu Covid-19.

Hy vọng các thông tin tại bài viết “Có được phép áp dụng điều khoản về sự kiện bất khả kháng đối với dịch bệnh COVID-19?” này là hữu ích cho các bạn và công việc của các bạn.

Trân trọng.

 

Có thể bạn quan tâm đến: Trách nhiệm pháp lý của doanh nghiệp khi vi phạm luật lao động trong mùa dịch COVID-19

Công ty Luật TNHH Quốc tế TNTP & Các Cộng sự

Địa chỉ: Tầng 4 số 200 Nguyễn Lương Bằng, Phường Quang Trung, Quận Đống Đa, Hà Nội

Luật sư: Nguyễn Thanh Hà

Email: ha.nguyen@tntplaw.com

Thư cảnh báo phát sinh công nợ

Dịch bệnh Covid-19 ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh cũng như tài chính của các đối tác và bên có nghĩa vụ trả nợ. Hãy lưu ý phòng ngừa rủi ro phát sinh các khoản nợ khi thực hiện các giao dịch mua bán theo Hợp đồng trong thời điểm này. Cụ thể như sau:

Trước khi giao kết Hợp đồng

  • Tìm hiểu, thu thập kỹ càng thông tin và tình hình hoạt động kinh doanh của đối tác. Để từ đó làm cơ sở giao kết Hợp đồng và tạo lập các điều khoản cần thiết.
  • Đặc biệt lưu ý đối tác có hoạt động kinh doanh chịu ảnh hưởng trực tiếp từ dịch bệnh. Đây là đối tượng chịu nhiều thiệt hại từ việc tạm ngừng hoạt động do dịch bệnh. Do đó khả năng tài chính bị sụt giảm và khả năng phát sinh công nợ là có thể thấy được.
  • Với đối tác mới cần tìm hiểu thông tin và tình hình kinh doanh sáu tháng gần nhất. Những bên thay đổi nhà cung cấp do nhà cung cấp trước đó không còn chấp nhận công nợ, ta cần cân nhắc kỹ trước khi giao kết hợp đồng. Không giao kết hợp đồng với bên đã và đang gánh chịu công nợ, cũng như chưa có cam kết trả nợ. Để tránh rủi ro trong tương lai.

Trong khi giao kết Hợp đồng

  • Lưu ý về thẩm quyền ký kết Hợp đồng của đối tác. Người có thẩm quyền ký kết Hợp đồng là người đại diện theo pháp luật. Trong trường hợp người đại diện theo pháp luật ủy quyền cho người khác để ký Hợp đồng, cần yêu cầu Giấy ủy quyền cho việc ủy quyền này.
  • Yêu cầu đối tác đặt cọc và/hoặc thêm điều khoản về bảo đảm thanh toán tại Hợp đồng.
  • Lưu ý điều khoản về tạm ngừng cung cấp hàng hóa khi đối tác chưa hoàn thành thanh toán các khoản nợ đến hạn.
  • Đề nghị đối tác thanh toán thông qua hình thức chuyển khoản. Do lợi thế về việc quản lý, lưu trữ chứng từ. Và Ngân hàng có thể hỗ trợ trích xuất các tài liệu làm chứng cứ nếu xảy ra tranh chấp.

Quá trình thực hiện Hợp đồng

  • Tuân thủ và giám sát sự tuân thủ Hợp đồng của Đối tác.
  • Các chứng từ giao nhận, biên bản đối chiếu công nợ, công văn trao đổi giữa các Bên cần được ký xác nhận và đóng dấu bởi mỗi Bên.

Sau khi phát sinh công nợ  

  • Trường hợp đối tác vi phạm nghĩa vụ thanh toán, cần gửi công văn yêu cầu thanh toán trong thời gian sớm nhất sau khi hết thời hạn thanh toán theo Hợp đồng. Nội dung Công văn yêu cầu thanh toán cần ấn định thời hạn thanh toán cụ thể, hợp lý. Những công văn đề cập đến công nợ được gửi cho đối tác cần được lấy Báo phát để thuận tiện trong việc theo dõi việc nhận thư của đối tác và là cơ sở để đối tác phản hồi.
  • Đề nghị đối tác phản hồi về khoản nợ bằng văn bản. Trong đó thể hiện lịch trình thanh toán và cam kết thanh toán của đối tác theo lịch trình.
  • Theo dõi và nhắc nhở đối tác về việc thanh toán theo lịch trình đã cam kết.
  • Tổng hợp và chuẩn bị các tài liệu cần thiết cho việc thương lượng và khởi kiện giải quyết tranh chấp tại Tòa án trong tương lai.

Hy vọng những cảnh báo pháp lý này của TNTP là hữu ích cho Quý Khách hàng trong những hoạt động kinh doanh sắp tới.

Trân trọng.

 

Có thể bạn quan tâm đến: Thu hồi nợ trong hoạt động Thương mại/ Dân sự/ Tín dụng/ Lao động/ Xây dựng.

Công ty Luật TNHH Quốc tế TNTP & Các Cộng sự

Địa chỉ: Tầng 4 số 200 Nguyễn Lương Bằng, Phường Quang Trung, Quận Đống Đa, Hà Nội

Luật sư: Nguyễn Thanh Hà

Email: ha.nguyen@tntplaw.com

Công ty Luật TNHH Quốc Tế TNTP và Các Cộng Sự

  • Văn phòng tại Hồ Chí Minh:
    Phòng 1901, Tầng 19 Tòa nhà Saigon Trade Center, 37 Tôn Đức Thắng, Phường Bến Nghé, Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh
  • Văn phòng tại Hà Nội:
    Số 2, Ngõ 308 Tây Sơn, Phường Thịnh Quang, Quận Đống Đa, Hà Nội
  • Email: ha.nguyen@tntplaw.com


    Bản quyền thuộc về: Công ty Luật TNHH Quốc Tế TNTP và Các Cộng Sự