Skip to main content

Author: Phạm Huyền

Quy định mới tại Nghị định 70/2025/NĐ-CP về hóa đơn được tạo từ máy tính có kết nối chuyển dữ liệu với cơ quan thuế

Ngày 20/3/2025, Nghị định số 70/2025/NĐ-CP (“NĐ 70/2025”) sửa đổi, bổ sung Nghị định số 123/2020/NĐ-CP ngày 19/10/2020 của Chính phủ quy định về hóa đơn, chứng từ (“NĐ 123/2020”). NĐ 70/2025 đã có nhiều thay đổi đáng kể liên quan đến loại hóa đơn, thời điểm lập hóa đơn, nội dung hóa đơn, và quan trọng nhất là các điểm mới về hóa đơn khởi tạo từ máy tính tiền. Trong bài viết sau, luật sư của TNTP sẽ phân tích những quy định mới về hóa đơn được tạo từ máy tính có kết nối chuyển dữ liệu với cơ quan thuế theo quy định tại NĐ 70/2025.

1. Định nghĩa Hóa đơn điện tử khởi tạo từ máy tính tiền kết nối chuyển dữ liệu với cơ quan thuế

• Theo quy định tại Điều 89 Luật quản lý thuế 2019 thì Hóa đơn điện tử là hóa đơn có mã hoặc không có mã của cơ quan thuế được thể hiện ở dạng dữ liệu điện tử do tổ chức, cá nhân bán hàng hóa, cung cấp dịch vụ lập, ghi nhận thông tin bán hàng hóa, cung cấp dịch vụ theo quy định của pháp luật về kế toán, pháp luật về thuế bằng phương tiện điện tử, bao gồm cả trường hợp hóa đơn được khởi tạo từ máy tính tiền có kết nối chuyển dữ liệu điện tử với cơ quan thuế.

• Theo quy định tại Khoản 3 Điều 89 Luật quản lý thuế 2019 thì Hóa đơn điện tử có mã của cơ quan thuế là hóa đơn điện tử được cơ quan thuế cấp mã trước khi tổ chức, cá nhân bán hàng hóa, cung cấp dịch vụ gửi cho người mua.

Như vậy từ quy định trên có thể thấy Hóa đơn điện từ khởi tạo khởi tạo từ máy tính tiền kết nối chuyển dữ liệu với cơ quan thuế là một loại hóa đơn ở dạng dữ liệu điện tử, được cơ quan thuế cấp mã trước khi tổ chức, cá nhân bán hàng hóa, cung cấp dịch vụ gửi cho người mua. Mỗi hóa đơn giao dịch của tổ chức, cá nhân bán hàng hóa, cung cấp dịch vụ đến người mua đều sẽ được gửi trực tiếp đến dữ liệu của cơ quan thuế.

2. Đối tượng bắt buộc phải sử dụng hóa đơn điện tử khởi tạo từ máy tính tiền kết nối chuyển dữ liệu với cơ quan thuế

(i) Hộ kinh doanh, cá nhân kinh doanh nộp thuế theo phương pháp khoán thuế có mức doanh thu hằng năm từ 01 tỷ đồng trở lên;
(ii) Doanh nghiệp có hoạt động bán hàng hóa, cung cấp dịch vụ, trong đó có bán hàng hóa, cung cấp dịch vụ trực tiếp đến người tiêu dùng (trung tâm thương mại; siêu thị; bán lẻ (trừ ô tô, mô tô, xe máy và xe có động cơ khác);
(iii) Ăn uống;
(iv) Nhà hàng;
(v) Khách sạn;
(vi) Dịch vụ vận tải hành khách, dịch vụ hỗ trợ trực tiếp cho vận tải đường bộ, dịch vụ nghệ thuật, vui chơi, giải trí, hoạt động chiếu phim, dịch vụ phục vụ cá nhân khác theo quy định về Hệ thống ngành kinh tế Việt Nam)

Như vậy, quy định cũ tại NĐ 123/2000 thì việc sử dụng hóa đơn điện tử khởi tạo từ máy tính tiền kết nối chuyển dữ liệu với cơ quan thuế không bắt buộc thì đến NĐ 70/2025 đã cụ thể các đối tượng bắt buộc phải tiền hành sử dụng hóa đơn điện tử khởi tạo từ máy tính tiền kết nối chuyển dữ liệu với cơ quan thuế. Đây là một thay đổi lớn trong công tác quản lý thuế của cơ quan nhà nước với các đối tượng trên.

3. Nguyên tắc của Hóa đơn điện tử khởi tạo từ máy tính tiền kết nối chuyển dữ liệu điện tử với cơ quan thuế

Theo quy định tại Khoản 8 Điều 1 Nghị định 70/2025 thì nguyên tắc của việc lập Hóa đơn điện tử khởi tạo từ máy tính tiền kết nối chuyển dữ liệu điện tử với cơ quan thuế như sau:

a) Nhận biết được hóa đơn in từ máy tính tiền kết nối chuyển dữ liệu điện tử với cơ quan thuế;
b) Không bắt buộc có chữ ký số;
c) Khoản chi mua hàng hóa, dịch vụ sử dụng hóa đơn (hoặc sao chụp hóa đơn hoặc tra thông tin từ Cổng thông tin điện tử của Tổng cục Thuế về hóa đơn) được khởi tạo từ máy tính tiền được xác định là khoản chi có đủ hóa đơn, chứng từ hợp pháp khi xác định nghĩa vụ thuế.

Như vậy có thể thấy, so với phương pháp kê khai thuế truyền thống, Hóa đơn điện tử khởi tạo từ máy tính tiền kết nối chuyển dữ liệu điện tử với cơ quan thuế sẽ có nhiều ưu điểm hơn như thời gian thực hiện nhanh chóng, hóa đơn không cần chữ ký số và hóa đơn được xác định là khoản chi có đủ hóa đơn, chứng từ hợp pháp khi xác định nghĩa vụ thuế. Điều này đem lại nhiều lợi ích cho người bán và cả quá trình quản lý của cơ quan thuế.

4. Nội dung cần có của Hóa đơn điện tử khởi tạo từ máy tính tiền

Theo quy định tại Khoản 8 Điều 1 Nghị định 70/2025, nội dung cần có của Hóa đơn điện tử khởi tạo từ máy tính tiền bao gồm:

a) Tên, địa chỉ, mã số thuế người bán;
b) Tên, địa chỉ, mã số thuế/số định danh cá nhân/số điện thoại của người mua theo quy định (nếu người mua yêu cầu);
c) Tên hàng hóa, dịch vụ, đơn giá, số lượng, giá thanh toán. Trường hợp tổ chức, doanh nghiệp nộp thuế theo phương pháp khấu trừ phải ghi rõ nội dung giá bán chưa thuế giá trị gia tăng, thuế suất thuế giá trị gia tăng, tiền thuế giá trị gia tăng, tổng tiền thanh toán có thuế giá trị gia tăng;
d) Thời điểm lập hóa đơn;
đ) Mã của cơ quan thuế hoặc dữ liệu điện tử để người mua có thể truy xuất, kê khai thông tin hóa đơn điện tử khởi tạo từ máy tính tiền.
Người bán gửi hoá đơn điện tử cho người mua bằng hình thức điện tử (tin nhắn, thư điện tử và các hình thức khác) hoặc cung cấp đường dẫn hoặc mã QR để người mua tra cứu, tải hoá đơn điện tử.

Trước đây tại NĐ 123/2020 không có quy định rõ ràng về nội dung của Hóa đơn điện tử khởi tạo từ máy tính tiền, tuy nhiên NĐ 70/2025 đã quy định rất cụ thể nội dung này. Đây là sự bổ sung pháp lý cần thiết để phục vụ quá trình triển khai, áp dụng việc sử dụng Hóa đơn điện tử khởi tạo từ máy tính tiền có kết nối chuyển dữ liệu với cơ quan thuế được cụ thể, đồng bộ và đem lại giá trị chung cho xã hội.

Trên đây là bài viết của luật sư TNTP về chủ đề: “Quy định mới tại Nghị định 70/2025/NĐ-CP về hóa đơn được tạo từ máy tính có kết nối chuyển dữ liệu với cơ quan thuế”. Mong rằng bài viết này có giá trị với các độc giả.

Trân trọng,

Các biện pháp cưỡng chế thi hành án dân sự

Trong quá trình thi hành án dân sự, các bên thường có xu hướng không tự nguyện thực hiện bản án, quyết định của Tòa án hoặc Trọng tài. Để dự trù và lường trước các trường hợp này, pháp luật thi hành án dân sự đã quy định các biện pháp cưỡng chế cần thiết. Các biện pháp này được tiến hành đối với người phải thi hành án cố tình không thực hiện nghĩa vụ dù có đủ điều kiện. Đây là những công cụ quyền lực nhà nước được trao cho cơ quan thi hành án dân sự và Chấp hành viên. Việc áp dụng các biện pháp cưỡng chế phải tuân thủ quy định của pháp luật. Chấp hành viên sẽ xem xét và lựa chọn phù hợp với từng trường hợp cụ thể, nhằm đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của các bên liên quan. Trong bài viết này, TNTP sẽ trình bày hệ thống các biện pháp cưỡng chế thi hành án được quy định theo pháp luật hiện hành.

1. Nguyên tắc áp dụng và lựa chọn biện pháp cưỡng chế

Việc lựa chọn và áp dụng biện pháp cưỡng chế không mang tính tùy tiện mà phải dựa trên những căn cứ và nguyên tắc nhất định, được quy định rõ trong các văn bản pháp luật. Theo Điều 13 Nghị định số 62/2015/NĐ-CP, Chấp hành viên căn cứ vào nhiều yếu tố để quyết định biện pháp cưỡng chế phù hợp:

• Căn cứ vào nội dung bản án, quyết định, quyết định thi hành án, tính chất, mức độ, nghĩa vụ thi hành án: Chấp hành viên cần xác định nghĩa vụ cụ thể mà bản án, quyết định thi hành án yêu cầu, chẳng hạn như: trả tiền, giao tài sản, thực hiện hoặc không thực hiện một công việc cụ thể và tính chất, mức độ của nghĩa vụ đó. Việc lựa chọn biện pháp phải tương thích với loại nghĩa vụ cần thi hành.

• Xem xét điều kiện của người phải thi hành án: Khả năng tài chính, tài sản, thu nhập, hoàn cảnh cụ thể của người phải thi hành án là yếu tố quan trọng để quyết định biện pháp thi hành án nào có thể thực hiện được và có hiệu quả. Ví dụ, không thể áp dụng biện pháp khấu trừ tiền trong tài khoản nếu kết quả xác minh cho thấy người phải thi hành án không có tài khoản ngân hàng, do đó, Chấp hành viên cần cân nhắc các biện pháp khác.

• Dựa trên yêu cầu bằng văn bản của đương sự và tình hình thực tế: Yêu cầu chính đáng, hợp pháp của người được thi hành án về biện pháp cưỡng chế cũng là căn cứ để Chấp hành viên xem xét. Bên cạnh đó, tình hình cụ thể tại địa phương nơi thi hành án cũng có thể ảnh hưởng đến việc lựa chọn và cách thức triển khai biện pháp cưỡng chế.

Việc kết hợp các yếu tố này giúp Chấp hành viên đưa ra quyết định hợp lý, đảm bảo biện pháp cưỡng chế vừa tuân thủ pháp luật, vừa khả thi và hiệu quả trong từng trường hợp cụ thể.

2. Hệ thống các biện pháp cưỡng chế thi hành án

Các biện pháp cưỡng chế thi hành án được liệt kê tại Điều 71 Luật Thi hành án dân sự 2008, sửa đổi, bổ sung 2014 (“Luật Thi hành án”) như sau:

• Khấu trừ tiền trong tài khoản, thu hồi, xử lý tiền, giấy tờ có giá của người phải thi hành án: Đây là biện pháp được áp dụng khi người phải thi hành án có tiền trong tài khoản ngân hàng hoặc sở hữu giấy tờ có giá (Ví dụ: Cổ phiếu, trái phiếu). Chẳng hạn, để khấu trừ tiền trong tài khoản, Chấp hành viên sẽ ra quyết định yêu cầu các tổ chức tín dụng chuyển tiền từ tài khoản của người phải thi hành án về cơ quan thi hành án để đảm bảo nghĩa vụ trả tiền. Ví dụ: Chấp hành viên yêu cầu Ngân hàng A trích 100.000.000 đồng từ tài khoản tiết kiệm của ông B để trả cho ông C theo bản án.

• Trừ vào thu nhập của người phải thi hành án: Biện pháp này nhằm vào việc khấu trừ vào các khoản thu nhập ổn định mà người phải thi hành án nhận được để thi hành án. Chấp hành viên sẽ yêu cầu cơ quan, tổ chức, người sử dụng lao động hoặc cơ quan bảo hiểm xã hội đang chi trả tiền lương, lương hưu, trợ cấp hoặc các khoản thu nhập hợp pháp khác của người phải thi hành án thực hiện việc khấu trừ một tỷ lệ hoặc số tiền nhất định theo quy định pháp luật. Ví dụ: Cơ quan thi hành án yêu cầu công ty X hàng tháng trích 20% tiền lương của người lao động D để thi hành nghĩa vụ trả tiền cho bà E theo bản án có hiệu lực pháp luật của Tòa án.

• Kê biên, xử lý tài sản của người phải thi hành án: Đây là biện pháp cưỡng chế tài sản cho phép Chấp hành viên kê biên và xử lý các tài sản thuộc quyền sở hữu của người phải thi hành án. Biện pháp này áp dụng đối với nhiều loại tài sản từ bất động sản đến động sản và đặc biệt, kể cả tài sản đó đang do người thứ ba quản lý, giữ hộ. Ví dụ: Chấp hành viên tiến hành kê biên và tổ chức bán đấu giá căn nhà thuộc sở hữu của ông G để thanh toán khoản nợ 5.000.000.000 đồng mà ông G có nghĩa vụ trả nợ theo phán quyết của Trọng tài thương mại.

• Khai thác tài sản của người phải thi hành án: Thay vì kê biên, xử lý tài sản, pháp luật cho phép Chấp hành viên áp dụng biện pháp khai thác tài sản của người phải thi hành án trong một số trường hợp (Ví dụ: Tài sản thi hành án có giá trị quá lớn so với nghĩa vụ phải thi hành). Mục đích là để lấy hoa lợi, lợi tức từ việc khai thác đó để thi hành án. Ví dụ: Đối với tài sản thi hành án là quyền sử dụng đất nông nghiệp được định giá là 2.000.000.000 đồng, Chấp hành viên có thể cho thuê diện tích đất đó theo mùa vụ và sử dụng tiền thu được từ việc cho thuê để thi hành án nghĩa vụ trả số tiền 200.000.000 đồng.

• Buộc chuyển giao vật, chuyển giao quyền tài sản, giấy tờ: Biện pháp này được áp dụng khi nội dung bản án, quyết định yêu cầu người phải thi hành án phải giao một vật cụ thể (Ví dụ: Một món đồ cổ, một chiếc xe), chuyển giao một quyền tài sản (Ví dụ: Quyền sử dụng đất) hoặc một loại giấy tờ nhất định (Ví dụ: Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất) cho người được thi hành án.

• Buộc người phải thi hành án thực hiện hoặc không được thực hiện công việc nhất định: Đây là nhóm biện pháp cưỡng chế phi tài sản, áp dụng khi nghĩa vụ là thực hiện hoặc không thực hiện một hành vi cụ thể. Ví dụ: Buộc ông L phải tháo dỡ phần công trình xây dựng lấn chiếm sang nhà ông M theo bản án.

Trên đây là bài viết “Các biện pháp cưỡng chế thi hành án dân sự” mà TNTP gửi tới Quý bạn đọc. Hy vọng bài viết sẽ hữu ích với các độc giả quan tâm tới vấn đề này.

Trân trọng.

 

Hợp đồng văn bản điện tử và Hợp đồng văn bản truyền thống – Đâu là lựa chọn phù hợp?

Hợp đồng văn bản điện tử với hợp đồng văn bản truyền thống là hai phương thức giao kết hợp đồng bằng văn bản phổ biến trong các giao dịch thương mại, dân sự hiện nay. Mỗi loại hợp đồng đều có những đặc điểm riêng về phương thức thực hiện, phạm vi áp dụng, chi phí vận hành và mức độ bảo mật. Vậy giữa hợp đồng văn bản điện tử với hợp đồng văn bản truyền thống, đâu là lựa chọn phù hợp nhất? Thông qua bài viết “Hợp đồng văn bản điện tử và Hợp đồng văn bản truyền thống – Đâu là lựa chọn phù hợp?” TNTP sẽ phân tích chi tiết hai loại hợp đồng này để quý bạn đọc có thể lựa chọn phương thức phù hợp nhất với nhu cầu của mình.

1. Tổng quan về Hợp đồng văn bản điện tử và Hợp đồng văn bản truyền thống

1.1. Tổng quan về Hợp đồng văn bản truyền thống

Hợp đồng văn bản truyền thống là phương thức giao kết hợp đồng quen thuộc, được thiết lập trên giấy với chữ ký tay và con dấu (nếu có) của các bên. Loại hợp đồng này chịu sự điều chỉnh chủ yếu của Bộ luật Dân sự 2015 và Luật Thương mại 2005. Hợp đồng văn bản truyền thống thường được giao kết giữa các chủ thể là cá nhân, pháp nhân và các chủ thể khác được pháp luật dân sự quy định, đảm bảo các điều kiện về năng lực hành vi dân sự để tiến hành giao kết hợp đồng.

Hợp đồng văn bản truyền thống tuân theo các nội dung cơ bản trong hợp đồng theo quy định của BLDS và các quy định chuyên ngành khác tùy lĩnh vực của hợp đồng như đối tượng hợp đồng, giá, phương thức thanh toán, thời hạn, địa điểm thực hiện, quyền và nghĩa vụ của các bên,v.v.

1.2. Tổng quan về hợp đồng văn bản điện tử

Hợp đồng điện tử ngày càng được ưa chuộng trong thời đại số hóa, đặc biệt kể từ khi Luật Giao dịch điện tử 2005 và gần đây là Luật Giao dịch điện tử 2023 (có hiệu lực từ 01/07/2024) được ban hành.

Căn cứ theo khoản 16 Điều 3, khoản 1 Điều 24 Luật Giao dịch điện tử 2023, Hợp đồng điện tử là hợp đồng được thiết lập dưới dạng thông điệp dữ liệu, đảm bảo giá trị pháp lý dù được giao kết hoặc thực hiện bởi hệ thống thông tin tự động mà không có sự kiểm tra hay can thiệp của con người.

Giống như hợp đồng văn bản truyền thống, hợp đồng điện tử cũng chịu sự điều chỉnh của Bộ luật Dân sự 2015 và Luật Thương mại 2005. Tuy nhiên, hợp đồng điện tử còn được điều chỉnh bởi các văn bản pháp luật chuyên biệt như Luật Giao dịch điện tử 2023 và Nghị định 137/2024/NĐ-CP. Điều này tạo ra một khung pháp lý chặt chẽ hơn cho hợp đồng điện tử, đồng thời cũng giới hạn phạm vi áp dụng của nó trong một số lĩnh vực nhất định.

Hợp đồng điện tử có sự tham gia của ít nhất ba chủ thể: bên mua, bên bán và bên cung cấp dịch vụ chứng thực điện tử. Bên thứ ba này đóng vai trò quan trọng trong việc đảm bảo tính xác thực và an toàn của giao dịch điện tử.

Theo Điều 36 Luật Giao dịch điện tử 2023, hợp đồng điện tử có thể bao gồm các điều khoản liên quan đến yêu cầu kỹ thuật, tính toàn vẹn và bảo mật. Ngoài các nội dung cơ bản như hợp đồng văn bản truyền thống, hợp đồng văn bản điện tử có thể bổ sung thông tin về địa chỉ điện tử, phương thức thanh toán trực tuyến và quy trình truy cập, sửa đổi thông tin,v.v.

Như vậy, Cả hai loại hợp đồng đều có giá trị pháp lý nếu tuân thủ các quy định hiện hành.

2. Ưu điểm và hạn chế của hợp đồng văn bản truyền thống, hợp đồng văn bản điện tử

Trước khi mỗi cá nhân và doanh nghiệp quyết định lựa chọn hợp đồng văn bản truyền thống hay hợp đồng văn bản điện tử trong giao dịch, TNTP sẽ phân tích những ưu điểm và hạn chế của hai loại hợp đồng nêu trên:

2.1 Ưu điểm và hạn chế của hợp đồng văn bản truyền thống

• Về ưu điểm, Hợp đồng văn bản truyền thống mang lại nhiều lợi thế đặc trưng nhờ tính chất vật lý cụ thể và quen thuộc đối với mọi chủ thể:

– Tính xác thực và tin cậy cao với chữ ký tay trực tiếp và con dấu của các bên.
– Được chấp nhận rộng rãi trong mọi lĩnh vực, từ giao dịch dân sự, thương mại đến đất đai, văn bản về thừa kế,v.v
– Quy trình thực hiện quen thuộc với đa số doanh nghiệp.
– Khi xảy ra tranh chấp, hợp đồng văn bản truyền thống với chữ ký tay, con dấu, và các yếu tố nhận dạng vật lý khác có thể dễ dàng được kiểm tra, xác minh bởi các cơ quan tư pháp.
– Việc giao kết hợp đồng văn bản truyền thống không phụ thuộc vào hạ tầng công nghệ thông tin, phù hợp với các đối tượng ít tiếp cận công nghệ hoặc tại những khu vực có hạ tầng công nghệ thông tin chưa phát triển.

• Bên cạnh những ưu điểm, hợp đồng văn bản truyền thống cũng bộc lộ một số hạn chế đáng kể:

– Chi phí in ấn, lưu trữ, quản lý và vận chuyển cao.
– Quy trình giao kết hợp đồng kéo dài do cần gặp mặt trực tiếp hoặc phải gửi hợp đồng giữa các bên.
– Hợp đồng văn bản truyền thống cần được lưu trữ vật lý, tùy vào cách lưu trữ của các cá nhân, doanh nghiệp, gây khó khăn trong quản lý và tìm kiếm tài liệu.
– Rủi ro về mất mát, hư hỏng tài liệu vật lý bởi hợp đồng văn bản truyền thống dễ bị mất mát hoặc hư hỏng do yếu tố khách quan.
– Trong bối cảnh hội nhập quốc tế, hợp đồng văn bản truyền thống gây nhiều bất lợi cho giao dịch xuyên biên giới do thời gian vận chuyển dài, chi phí cao, và rủi ro thất lạc trong quá trình chuyển phát quốc tế.

2.2 Ưu điểm và hạn chế của hợp đồng văn bản điện tử

• Về ưu điểm, hợp đồng văn bản điện tử mang lại nhiều lợi ích trong việc tối ưu hóa quy trình ký kết:

– Khi giao kết hợp đồng điện tử, doanh nghiệp không cần in ấn, vận chuyển, từ đó giảm bớt các chi phí không cần thiết. Việc ký kết diễn ra nhanh chóng, rút ngắn thời gian giao dịch.
– Hợp đồng điện tử cho phép ký kết từ xa mà không bị giới hạn bởi vị trí địa lý, giúp doanh nghiệp mở rộng phạm vi hợp tác kinh doanh.
– Hợp đồng điện tử sử dụng công nghệ mã hóa, chữ ký số và các giải pháp xác thực điện tử để đảm bảo tính xác thực, giúp ngăn chặn nguy cơ giả mạo hoặc thay đổi nội dung hợp đồng.
– Doanh nghiệp dễ dàng quản lý và lưu trữ do các hợp đồng được lưu trữ trên hệ thống kỹ thuật số, giúp tra cứu, tìm kiếm nhanh chóng và giảm nguy cơ mất mát.
– Hợp đồng điện tử không chịu ảnh hưởng của các yếu tố vật lý như cháy nổ, ẩm mốc hay mất trộm như hợp đồng văn bản truyền thống, giúp giảm thiểu rủi ro mất mát.
– Sử dụng hợp đồng điện tử giúp tự động hóa quy trình ký kết, giảm thiểu sai sót do con người, tiết kiệm thời gian và nâng cao hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp.

• Hợp đồng văn bản điện tử cũng có một số hạn chế cần lưu ý:

– Để sử dụng hiệu quả hợp đồng văn bản điện tử, các bên tham gia cần có hạ tầng công nghệ thông tin đủ mạnh, bao gồm thiết bị, phần mềm và kết nối internet ổn định. Đây có thể là rào cản đối với một số doanh nghiệp nhỏ hoặc cá nhân ở vùng sâu, vùng xa.
– Rủi ro về an ninh mạng do dữ liệu hợp đồng văn bản điện tử có thể trở thành mục tiêu tấn công của hacker, gây mất mát hoặc lộ lọt thông tin nhạy cảm.
– Phạm vi áp dụng vẫn còn hạn chế do một số lĩnh vực như bất động sản, hộ tịch, hôn nhân gia đình, thừa kế vẫn yêu cầu hợp đồng văn bản truyền thống, có công chứng chứng thực theo quy định pháp luật.
– Nhiều cá nhân, doanh nghiệp có thể cảm thấy chưa tin tưởng hoặc chưa quen thuộc với việc ký kết hợp đồng điện tử. Việc thay đổi thói quen từ hợp đồng văn bản truyền thống sang hợp đồng điện tử có thể gặp phải sự phản kháng ban đầu.

3. Nên chọn hợp đồng văn bản điện tử hay hợp đồng văn bản truyền thống để phù hợp khi giao dịch?

Việc lựa chọn giữa hợp đồng văn bản điện tử hoặc hợp đồng văn bản truyền thống phụ thuộc vào nhiều yếu tố, bao gồm lĩnh vực hoạt động, quy mô doanh nghiệp, tính chất giao dịch và yêu cầu pháp lý cụ thể. Theo đó, căn cứ vào từng trường hợp cụ thể, cá nhân và doanh nghiệp có thể lựa chọn sử dụng hợp đồng văn bản điện tử hoặc hợp đồng văn bản truyền thống để phù hợp giao dịch của mình.

• Cá nhân và doanh nghiệp có thể lựa chọn sử dụng hợp đồng điện tử trong các trường hợp sau đây:

– Có giao dịch thường xuyên, liên tục trong hoạt động sản xuất kinh doanh như các lĩnh vực thương mại điện tử, tài chính, bảo hiểm, cung cấp dịch vụ, hợp đồng lao động,v.v hoặc các giao dịch xuyên biên giới, quốc tế.
– Các giao dịch không yêu cầu công chứng, chứng thực, cần thực hiện nhanh chóng.
– Muốn tiết kiệm chi phí, thời gian và tăng hiệu quả quản lý hợp đồng.
– Khi các bên đã có hạ tầng kỹ thuật đảm bảo (chữ ký số, phần mềm ký điện tử, internet).

• Cá nhân và doanh nghiệp có thể lựa chọn sử dụng hợp đồng văn bản truyền thống trong các trường hợp sau đây:

– Giao dịch thuộc lĩnh vực mà pháp luật yêu cầu phải có bản giấy công chứng chứng thực (ví dụ: hợp đồng mua bán nhà đất, hợp đồng ủy quyền…).
– Các giao dịch có giá trị lớn, rủi ro cao, phức tạp đòi hỏi việc gặp mặt trực tiếp để đàm phán, thương lượng.
– Đối tác không quen thuộc với công nghệ hoặc chưa có chữ ký điện tử
– Các bên muốn đảm bảo tính pháp lý chắc chắn hơn, giảm thiểu tranh chấp liên quan đến chữ ký số.

Cả hợp đồng điện tử và hợp đồng văn bản truyền thống đều có giá trị pháp lý và phù hợp với từng nhu cầu khác nhau. Doanh nghiệp, cá nhân có thể linh hoạt kết hợp cả hai loại hợp đồng để có thể tối ưu được chi phí vận hành và nâng cao hiệu quả trong hoạt động kinh doanh. Trong bối cảnh chuyển đổi số mạnh mẽ, hợp đồng điện tử đang ngày càng trở nên phổ biến và được ưa chuộng hơn. Tuy nhiên, hợp đồng văn bản truyền thống vẫn sẽ tiếp tục tồn tại song song, đặc biệt trong các lĩnh vực đặc thù mà pháp luật yêu cầu. Quan trọng nhất, doanh nghiệp cần đánh giá đúng đặc điểm của từng loại giao dịch, cân nhắc dựa trên nhu cầu thực tế để lựa chọn phương thức phù hợp, đảm bảo tính pháp lý và hiệu quả kinh doanh.

Trên đây là bài viết của TNTP về “Hợp đồng văn bản điện tử và Hợp đồng văn bản truyền thống-Đâu là lựa chọn phù hợp?”. Hy vọng những thông tin trên sẽ hữu ích với Quý Độc giả. Trường hợp cần hỗ trợ, đừng ngần ngại liên hệ với chúng tôi.

Trân trọng,

Phân biệt tranh chấp dân sự và tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản

Các doanh nghiệp trong quá trình hoạt động thường không thể tránh được việc các đối tác hoặc bên nợ trốn tránh nghĩa vụ trả nợ trong nhiều tháng, thậm chí nhiều năm. Khi đó, nhiều doanh nghiệp cho rằng hành động đó có thể cấu thành tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản và gửi đơn tố cáo đơn cơ quan công an có thẩm quyền. Tuy nhiên, để có thể cấu thành tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản thì người phạm tội phải có đủ các điều kiện của tội này theo quy định tại Bộ Luật hình sự. Trong bài viết này, chúng tôi sẽ đưa ra những điểm giống và khác giữa tranh chấp dân sự và tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản để các doanh nghiệp có thể áp dụng vào tình huống thực tế.

1. Dấu hiệu của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản

Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản được quy định tại Điều 174 Bộ luật Hình sự 2015. Theo đó các yếu tố cấu thành tội này như sau:

  • Về mặt chủ thế của tội phạm

Chủ thể của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản là người có năng lực chịu trách nhiệm hình sự và đạt độ tuổi từ 16 tuổi trở lên.

Như vậy, chủ thể của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản chỉ có thể là cá nhân.

  • Mặt khách thể của tội phạm

Khách thể của tội Chiếm đoạt tài sản là xâm phạm quan hệ sở hữu (tiền, vật, giấy tờ có giá, …), không xâm phạm các quan hệ nhân thân (tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, quyền sở hữu trí tuệ,…).

  • Mặt khách quan của tội phạm

Người phạm tội chỉ có một hành vi khách quan duy nhất là hành vi chiếm đoạt nhưng việc chiếm đoạt được thực hiện bằng thủ đoạn gian dối.

  • Mặt chủ quan của tội phạm

Tội phạm được thực hiện với lỗi cố ý trực tiếp, vì mục đích của người phạm tội là mong muốn chiếm đoạt tài sản. Người phạm tội nhận thức được rõ hậu quả của hành vi do mình gây ra và mong muốn hậu quả xảy ra. Mục đích chiếm đoạt là dấu hiệu bắt buộc và phải xuất hiện trước khi thực hiện hành vi chiếm đoạt.

2. So sánh tranh chấp dân sự và tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản

  • Giống

Hành vi trốn tránh việc thanh toán khoản nợ và tội lừa đảo chiếm đoạt đều bắt đầu bằng việc một bên giao cho bên còn lại một hoặc nhiều tài sản nhất định thông qua hình thức Hợp đồng hoặc thỏa thuận khác.

  • Khác nhau
Chủ thể:

Đối với tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản, chủ thể phạm tội chỉ có thể là cá nhân. Do đó nếu trường hợp bên nợ là cá nhân thì doanh nghiệp có thể cân nhắc tố giác tội phạm tại cơ quan có thẩm quyền, tuy nhiên nếu bên nợ là doanh nghiệp thì không thể tố giác hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản, vì theo quy định của pháp luật thì doanh nghiệp không phải là chủ thể của tội phạm này.

Nếu bên nợ là doanh nghiệp có hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản, bên thu hồi nợ có thể tố cáo hành vi vi phạm đối với người trực tiếp ký kết hợp đồng (thường là người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp) hoặc người trực tiếp thực hiện giao dịch và nắm giữ tài sản của bên cần thu hồi nợ.

Thủ đoạn gian dối:

Nhiều trường hợp sau khi giao kết hợp đồng nhưng bên nợ đến hạn không thanh toán, hoặc cố ý kéo dài thời hạn thanh toán, cắt đứt liên lạc khiến nhiều doanh nghiệp cho rằng đó có thể là thủ đoạn gian dối nhắm chiếm đoạt tài sản. Tuy nhiên, không phải bất cứ hành vi nào của bên nợ cũng là thủ đoạn gian dối.

Thủ đoạn gian dối là đưa ra thông tin giả nhưng làm cho người khác tin đó là sự thật để giao tài sản cho người phạm tội. Thủ đoạn gian dối phải có trước khi người phạm tội chiếm đoạt tài sản. Do đó, bên nợ được coi là sử dụng thủ đoạn gian dối để chiếm đoạt tài sản của bên cần thu hồi nợ khi bên nợ sử dụng thông tin giả, và/hoặc che giấu mục đích thật sự của giao dịch trước khi các bên tiến hành giao kết hợp đồng hoặc giao dịch để tạo lòng tin, khiến bên cần thu hồi nợ tin tưởng và giao tài sản cho bên nợ.

Trong trường hợp các bên giao kết hợp đồng một cách hợp pháp sau đó bên nợ mới thực hiện hành vi chiếm đoạt thì không thể cấu thành tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản mà trở thành tội Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản. Chúng tôi đã phân tích về tội phạm này tại bài viết Phân biệt tranh chấp dân sự và tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản.

Trên đây là những chia sẻ pháp lý giúp các doanh nghiệp phân biệt tranh chấp dân sự và tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản. Hy vọng bài viết này có ích cho các bạn.

Trân trọng.

Có thể bạn chưa đọc Phân biệt tranh chấp dân sự và tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản

Tham gia Fanpage Giải Quyết Tranh Chấp Và Thu Hồi Nợ để có thêm những kiến thức pháp lý bổ ích.

Công ty Luật TNHH Quốc tế TNTP và Các Cộng sự

Luật sư Nguyễn Thanh Hà

Email: ha.nguyen@tntplaw.com

Thời điểm chuyển giao rủi ro trong hợp đồng mua bán hàng hóa (Phần 2)

Trong bài viết kỳ trước, TNTP đã phân tích cho bạn đọc về rủi ro trong hợp đồng mua bán hàng hóa và thời điểm chuyển rủi ro trong trường hợp có địa điểm giao hàng xác định. Trong bài viết kỳ này, TNTP sẽ tiếp tục phân tích các trường hợp còn lại về thời điểm chuyển rủi ro trong hợp đồng mua bán hàng hóa.

2. Thời điểm chuyển rủi ro trong hợp đồng mua bán hàng hóa

Trường hợp 2: Chuyển rủi ro trong trường hợp không có địa điểm giao hàng xác định

Trừ trường hợp có thỏa thuận khác, nếu hợp đồng có quy định về việc vận chuyển hàng hóa và bên bán không có nghĩa vụ giao hàng tại một địa điểm nhất định thì rủi ro về mất mát hoặc hư hỏng hàng hóa được chuyển cho bên mua khi hàng hóa được giao cho người vận chuyển đầu tiên. Để các bên chuyển rủi ro theo trường hợp này thì cần hai điều kiện sau, một là hợp đồng có quy định về việc vận chuyển hàng hóa và hai là bên bán không có nghĩa vụ giao hàng tại một địa điểm nhất định. Trường hợp không đáp ứng đủ hai điều kiện trên, việc chuyển rủi ro sẽ được xác định theo các trường hợp còn lại về thời điểm chuyển rủi ro.

Nếu hợp đồng có quy định về việc vận chuyển hàng hóa thì thường bên bán hoặc bên mua sẽ phải ký kết thêm hợp đồng vận chuyển hàng hóa. Dù bên nào ký hợp đồng vận chuyển và hàng hóa được vận chuyển bởi nhiều người thì rủi ro về mất mát và hư hỏng hàng hóa được chuyển cho bên mua khi hàng hóa đã được giao cho người vận chuyển đầu tiên. Để tránh việc tranh chấp với bên mua về thời điểm chuyển rủi ro khi bên mua cho rằng không biết về việc vận chuyển hàng hóa, thì bên bán cần thực hiện đầy đủ các trách nhiệm sau:

  • Trường hợp hàng hóa được giao cho người vận chuyển nhưng không được xác định rõ bằng ký mã hiệu trên hàng hóa, chứng từ vận chuyển hoặc cách thức khác thì bên bán phải thông báo cho bên mua về việc đã giao hàng cho người vận chuyển và phải xác định rõ tên và cách thức nhận biết hàng hoá được vận chuyển.
  • Trường hợp bên bán có nghĩa vụ thu xếp việc chuyên chở hàng hoá thì bên bán phải ký kết các hợp đồng cần thiết để việc chuyên chở được thực hiện tới đích bằng các phương tiện chuyên chở thích hợp với hoàn cảnh cụ thể và theo các điều kiện thông thường đối với phương thức chuyên chở đó.
  • Trường hợp bên bán không có nghĩa vụ mua bảo hiểm cho hàng hoá trong quá trình vận chuyển, nếu bên mua có yêu cầu thì bên bán phải cung cấp cho bên mua những thông tin cần thiết liên quan đến hàng hoá và việc vận chuyển hàng hoá để tạo điều kiện cho bên mua mua bảo hiểm cho hàng hoá đó.

Trường hợp 3: Chuyển rủi ro trong trường hợp giao hàng cho người nhận hàng để giao mà không phải là người vận chuyển

Nếu hàng hóa đang được người nhận hàng để giao nắm giữ mà không phải là người vận chuyển thì rủi ro về mất mát hoặc hư hỏng hàng hóa được chuyển cho bên mua nếu thuộc một trong các trường hợp sau:

  • Khi bên mua nhận được chứng từ sở hữu hàng hóa. Chứng từ sở hữu hàng hóa là các giấy tờ, tài liệu thể hiện việc bên bán chuyển quyền sở hữu hàng hóa cho bên mua như các vận đơn, hóa đơn, phiếu xuất kho, giấy chứng nhận,…
  • Khi người nhận hàng để giao xác nhận quyền chiếm hữu hàng hóa của bên mua. Trong trường hợp này, bên bán cần thỏa thuận trước với bên giao hàng về việc xác nhận bên mua đã nhận hàng hóa bằng các biên bản giao nhận hàng hóa có chữ ký của bên mua và bên giao hàng, video, hình ảnh việc nhận hàng.

Nếu không thuộc vào hai trường hợp trên thì bên phải chịu rủi ro là bên bán.

Trường hợp 4: Chuyển rủi ro trong trường hợp mua bán hàng hóa đang trên đường vận chuyển

Trừ trường hợp có thỏa thuận khác, nếu đối tượng của hợp đồng là hàng hóa đang trên đường vận chuyển thì rủi ro về mất mát và hư hỏng hàng hóa được chuyển cho bên mua kể từ khi giao kết hợp đồng.

“Hàng hóa đang trên đường vận chuyển” theo trường hợp này không phải là hàng hóa đã trở thành đối tượng trong hợp đồng và đang trong thời gian vận chuyển từ bên bán cho bên mua.

“Hàng hóa đang trên đường vận chuyển” được hiểu là tại thời điểm giao kết hợp đồng, hàng hóa đang được di chuyển từ nơi này đến nơi khác, không có vị trí cố định, không phải là đối tượng trong hợp đồng đã giao kết và đang thuộc quyền sở hữu của bên bán. Rủi ro được chuyển qua cho bên mua ngay sau khi các bên giao kết hợp đồng.

Có thể xét đến ví dụ sau để hiểu rõ hơn về trường hợp này, bên A (Hưng Yên, Việt Nam) ký kết hợp đồng mua bán nông sản với bên B (Trung Quốc), khi bên A vận chuyển nông sản đến cửa khẩu quốc tế Hữu Nghị (Lạng Sơn) thì nhận được thông tin rằng cửa khẩu đã tạm thời dừng thông quan xuất, nhập khẩu hàng hóa để thực hiện truy vết và kiểm tra các trường hợp liên quan một số ca COVID-19. Do vậy, hai bên không thể tiến hành việc giao nhận hàng hóa và buộc phải chấm dứt hợp đồng. Trên đường vận chuyển hàng hóa về lại Hưng Yên, bên C (Hà Nội, Việt Nam) đã đồng ý mua lại hàng hóa và hai bên đã tiến hành giao kết hợp đồng. Như vậy, kể từ thời điểm bên A và bên C giao kết hợp đồng, rủi ro về mất mát hoặc hư hỏng đối với hàng hóa được chuyển giao cho bên C.

Trường hợp 5: Chuyển rủi ro trong các trường hợp khác

Nếu không thuộc các trường hợp 1, 2, 3, 4 thì rủi ro về mất mát hoặc hư hỏng hàng hóa được chuyển cho bên mua, kể từ thời điểm hàng hóa thuộc quyền định đoạt của bên mua và bên mua vi phạm hợp đồng do không nhận hàng, cụ thể bên mua đã không thực hiện việc nhận hàng theo như các bên đã thỏa thuận trước đó về thời gian, địa điểm nhận hàng.

Rủi ro về mất mát hoặc hư hỏng hàng hóa không được chuyển cho bên mua, nếu hàng hóa không được xác định rõ ràng bằng ký mã hiệu, chứng từ vận tải, không được thông báo cho bên mua hoặc không được xác định bằng bất kỳ cách thức nào khác.

3. Những lưu ý về vấn đề “xác định rủi ro” khi giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa

  • Khi giao kết hợp đồng các bên cần có những dự liệu về các rủi ro có thể phát sinh, từ đó thỏa thuận thành các điều khoản trong hợp đồng về thời điểm các bên phải chịu rủi ro.
  • Đối với các hợp đồng có giá trị lớn, hàng hóa dễ có nguy cơ gặp rủi ro thì các bên cần thỏa thuận cụ thể về cách thức, phương tiện, địa điểm, thời gian vận chuyển hàng hóa và mua bảo hiểm cho hàng hoá trong quá trình vận chuyển.

Trên đây là bài viết “Thời điểm chuyển giao rủi ro trong hợp đồng mua bán hàng hóa (Phần 2)”. Chúng tôi hy vọng bài viết này có ích với các bạn.

Thời điểm chuyển giao rủi ro trong hợp đồng mua bán hàng hóa (Phần 1)

Từ khi giao kết đến khi chấm dứt hợp đồng mua bán hàng hóa, các bên luôn mong muốn hợp đồng được thực hiện một cách thuận lợi, hạn chế thấp nhất các mất mát, hư hỏng có thể xảy ra đối với hàng hóa. Tuy nhiên trong nhiều thời điểm, như trong quá trình vận chuyển hàng hóa từ bên bán đến bên mua, hoặc khi hàng hóa được vận chuyển đến kho của bên mua,… thì hàng hóa có thể bị mất mát hoặc hư hỏng. Vậy bên bán hay bên mua sẽ phải chịu rủi ro trong những trường hợp này? TNTP sẽ trả lời câu hỏi này trong bài viết sau đây.

1. Rủi ro trong hợp đồng mua bán hàng hóa

Rủi ro trong hợp đồng mua bán là những mất mát, hư hỏng xảy ra đối với hàng hóa. Rủi ro có thể xảy ra do lỗi chủ quan của con người hoặc do các hiện tượng khách quan (thời tiết, thiên tai, hỏa hoạn, chiến tranh, đình công, dịch bệnh, tai nạn,…). Rủi ro là điều các bên không mong muốn vì các bên sẽ phải gánh chịu thiệt hại do rủi ro gây nên. Do vậy, việc phân định thời điểm nào bên bán phải chịu những mất mát, hư hỏng của hàng hóa; thời điểm nào những hư hỏng, mất mát đó được chuyển cho bên mua có ý nghĩa quan trọng trong thực tiễn thực hiện hợp đồng của các bên.

2. Thời điểm chuyển rủi ro trong hợp đồng mua bán hàng hóa

Chuyển rủi ro là việc xác định bên mua hay bên bán là người chịu trách nhiệm với những mất mát, hư hỏng của hàng hóa tại một thời điểm xác định. Pháp luật hiện hành tôn trọng sự thỏa thuận của các bên về thời điểm chuyển rủi ro trong hợp đồng mua bán hàng hóa. Trong trường hợp các bên không thỏa thuận thì việc xác định bên phải chịu rủi ro sẽ căn cứ vào quy định của Bộ luật dân sự năm 2015 và Luật Thương mại năm 2005, cụ thể:

Trường hợp 1: Chuyển rủi ro trong trường hợp có địa điểm giao hàng xác định

Về nguyên tắc, pháp luật tôn trọng sự thỏa thuận của các bên, do vậy, kể cả khi các bên đã thỏa thuận, quy định cụ thể về địa điểm giao hàng thì việc xác định thời điểm chuyển giao rủi ro trước hết do các bên thỏa thuận.

Ví dụ, các bên quy định trong hợp đồng rằng bên mua chỉ nhận hàng và ký biên bản giao nhận hàng hóa để làm cơ sở thanh toán và chịu rủi ro sau khi các bên đã tiến hành nghiệm thu hàng hóa và/hoặc bên mua nhận được đầy đủ chứng từ liên quan đến hàng hoá tại thời điểm giao nhận hàng hóa. Trường hợp bên bán không đảm bảo về chủng loại, số lượng, chất lượng của hàng hóa và/hoặc không bàn giao đủ chứng từ, bên mua có quyền không nhận hàng, không ký kết biên bản giao nhận hàng hóa, thay vào đó là lập biên bản xác định lỗi của bên bán để từ đó không nhận hàng và không phải chịu rủi ro về hàng hóa.

Trường hợp các bên không thỏa thuận về thời điểm chuyển giao rủi ro thì rủi ro về mất mát hoặc hư hỏng hàng hóa sẽ được chuyển cho bên mua khi hàng hóa được chuyển cho bên mua hoặc người được bên mua ủy quyền đã nhận hàng tại địa điểm được thỏa thuận bởi hai bên, kể cả trong trường hợp bên bán được uỷ quyền giữ lại các chứng từ xác lập quyền sở hữu đối với hàng hoá.

Trong các hợp đồng mua bán hàng hóa, các bên thường quy định rõ địa điểm giao hàng, địa điểm này có thể là kho chứa hàng của bên mua, địa điểm kinh doanh của bên mua, hoặc địa điểm chứa hàng của bên thứ ba,… Một số hợp đồng còn quy định rõ về thông tin của người được bên mua ủy quyền nhận hàng để hai bên thuận tiện trong việc giao nhận hàng hóa.

Trường hợp hợp đồng không quy định cụ thể về người được bên mua ủy quyền nhận hàng thì bên bán cần chủ động liên hệ với bên mua để xác nhận thông tin của người này, đặc biệt là khi bên bán giao hàng đến địa điểm của bên thứ ba không phải bên mua. Bởi lẽ các bên vẫn có thể phát sinh tranh chấp nếu bên bán chỉ giao hàng đến địa điểm theo chỉ định của bên mua, giao cho người không có thẩm quyền nhận hàng và hai bên không ký kết bất kỳ biên bản nào chứng minh việc bên mua đã nhận được đầy đủ hàng hóa. Do vậy, bên bán không chỉ cần giao hàng đến đúng địa điểm mà bên mua đã chỉ định mà còn phải giao cho đúng người được bên mua ủy quyền nhận hàng hóa, đồng thời các bên cần ký kết biên bản giao nhận hàng hóa/phiếu giao hàng để chứng minh bên mua hoặc người được bên mua ủy quyền đã nhận hàng. Trường hợp bên nhận hàng không phải là bên mua hoặc người được bên mua ủy quyền thì khả năng cao là bên bán sẽ phải chịu rủi ro, trừ trường hợp việc bên bán giao hàng cho nhầm người xuất phát từ lỗi của bên mua, như bên mua cố ý cung cấp các thông tin sai lệch về người nhận hàng cho bên mua,…

Tóm lại, thời điểm chuyển rủi ro trùng với thời điểm bên bán giao hàng cho bên mua, và bên mua hoặc người đại diện có thẩm quyền của bên mua nhận hàng. Tuy nhiên, không phải mọi trường hợp thời điểm bên bán giao hàng và thời điểm bên mua nhận hàng là trùng nhau. Do vậy, các bên cần căn cứ vào quy định về thời gian giao nhận hàng trong hợp đồng để xác định rủi ro đã được chuyển giao hay chưa, chuyển giao vào thời điểm nào. Thông thường, bên vi phạm nghĩa vụ giao – nhận hàng sẽ là bên phải chịu rủi ro.

  • Ví dụ, hai bên thỏa thuận thời điểm hai bên giao nhận hàng hóa là 15 giờ ngày 25/11/2022 tại kho hàng của bên mua. Bên bán đã vận chuyển hàng hóa đến kho hàng của bên mua đúng 15 giờ ngày 25/11/2022, tuy nhiên kho hàng này đang đóng cửa và bên mua chưa nhận hàng. Vào 16 giờ 30 cùng ngày, trời mưa và một phần hàng hóa đã bị hỏng vì ngấm nước. Trong trường hợp này, bên mua phải chịu rủi ro vì đã vi phạm nghĩa vụ nhận hàng.
  • Cũng ví dụ nêu trên nhưng bên bán đã vận chuyển hàng hóa đến kho hàng của bên mua vào 16 giờ ngày 25/11/2022, muộn hơn thời gian mà hai bên thỏa thuận. Bên mua từ chối nhận hàng vì bên bán giao hàng chậm. Vào 16 giờ 30 cùng ngày, trời mưa và một phần hàng hóa đã bị hỏng vì ngấm nước. Trong trường hợp này, bên bán phải chịu rủi ro vì đã vi phạm nghĩa vụ giao hàng.
  • Cũng ví dụ nêu trên, hai bên chỉ thỏa thuận về thời gian hai bên giao nhận hàng hóa là ngày 25/11/2022 mà không thỏa thuận giờ cụ thể. Bên bán giao hàng đến kho của bên mua vào 16 giờ ngày 25/11/2022. Bên mua chưa kịp nhận hàng thì trời mưa và một phần hàng hóa đã bị hỏng vì ngấm nước. Trong trường hợp này, bên bán sẽ phải chịu rủi ro vì tuy bên mua chưa nhận hàng nhưng không vi phạm nghĩa vụ nhận hàng.

Trên đây là bài viết “Thời điểm chuyển giao rủi ro trong hợp đồng mua bán hàng hóa (Phần 1)”. Các bạn vui lòng theo dõi phần 2 trong bài viết kỳ sau của TNTP.

Bài học thực tiễn cho doanh nghiệp từ tranh chấp hợp đồng mua bán hàng hóa theo mẫu

Hàng mẫu là vật làm mẫu cho các hợp đồng mua bán theo mẫu giữa các bên chủ thể của hợp đồng mua bán. Theo hợp đồng mua bán hàng theo mẫu, người bán có nghĩa vụ cung cấp các loại hàng hóa giống như mẫu cho người mua. Tuy nhiên, trên thực tế cũng cho thấy không ít những tranh chấp đã xảy ra liên quan đến vấn đề này. Vậy khi ký kết, thực hiện hợp đồng mua bán hàng hóa theo mẫu, các doanh nghiệp cần phải lưu ý những điểm gì? Hãy cùng TNTP tìm hiểu bài viết dưới đây.

1. Hàng mẫu là gì?

Hàng mẫu là hàng dùng làm mẫu để sản xuất, chế biến, gia công, mua bán. Trong mua bán hàng hóa quốc tế, hàng mẫu là vật làm mẫu cho các hợp đồng mua bán hàng theo mẫu giữa các bên chủ thể của hợp đồng mua bán ngoại thương. Theo hợp đồng mua bán hàng mẫu, người bán có nghĩa vụ cung cấp loại hàng hóa giống như mẫu các bên đã xác nhận, thống nhất cho người mua.

2. Những lưu ý cho doanh nghiệp khi thực hiện hợp đồng mua bán hàng hóa theo mẫu

Nguyên nhân phát sinh tranh chấp hợp đồng mua bán hàng hóa theo mẫu

Một trong những nguyên nhân dẫn đến phát sinh tranh chấp liên quan đến mẫu hàng hóa đó là: các bên không tính đến vấn đề thời tiết, khí hậu hay thổ nhưỡng khi lấy mẫu, lưu mẫu hay bảo quản mẫu. Vì chất lượng mẫu có thể thay đổi dưới tác động của nhiệt độ và độ ẩm, đặc biệt là với những hàng hóa như than xăng dầu.

Quy trình, thủ tục lấy mẫu

Quy trình thủ tục lấy mẫu cũng cần các bên thực hiện đúng nguyên tắc theo sự chứng kiến của ca 3 bên: bên bán, bên mua và đại diện trung gian khách quan khác. Mẫu lấy xong cần được niêm phong ký xác nhận của các bên.

Quá trình lấy mẫu cũng cần phải được thể hiện bằng văn bản ghi ngày giờ rõ ràng, có chữ ký của các bên. Trên thực tế cũng cho thấy đây là 1 trong những rủi ro rất dễ gặp phải của doanh nghiệp khi mua bán hàng hóa theo mẫu bỏ qua nguyên tắc này.

Đối tượng thường được áp dụng của hợp đồng mua bán hàng hóa theo mẫu

Phương thức mua hàng theo mẫu thường dùng áp dụng cho những mặt hàng có quy cách phẩm chất ít bị biến động do tác động môi trường, khó tiêu chuẩn hóa, khó mô tả như các  mặt hàng may mặc, các loại hạt, quặng hay xăng dầu khí đốt,… và đối với mỗi mặt hàng, số lượng lấy mẫu cũng khác nhau.

Không nên mua bán hàng hóa hoặc gia công sản xuất những hàng hóa bản quản khó khăn hoặc những hàng hóa độc hại, nguy hiểm trong quá trình bảo quản hàng hóa đó.

Vì vậy, doanh nghiệp cần lưu ý đối với mỗi mặt hàng mà áp dụng phương pháp này cho phù hợp.

3. Lưu ý khi thỏa thuận, soạn hợp đồng để đảm bảo chất lượng hàng hóa đạt chuẩn mẫu

Giai đoạn trước khi ký Hợp đồng mua bán

Trước khi Các bên ký kết hợp đồng mua bán hàng hóa theo mẫu cần tiến hành nghiệm thu sản phẩm mẫu. Bên bán và bên mua cần lập văn bản thỏa thuận về quy trình xử lý và bảo quản hàng hóa, các biện pháp so sánh đối chiếu về hàng hóa theo mẫu được lưu trữ và hàng hóa được sản xuất ra. Những điều kiện nghiệm thu về hàng hóa, trên cơ sở đó mới tiếp nhận về việc giao hàng và chuyển quyền sở hữu từ bên bán sang bên mua. Các thỏa thuận này là căn cứ để các bên quy định chi tiết, chặt chẽ và đảm bảo đầy đủ tại Hợp đồng mua bán.

Giai đoạn sau khi ký Hợp đồng mua bán

Trong hợp đồng mua bán hàng hóa theo mẫu, cần có tiêu chí rõ ràng về chất lượng của hàng hóa. Nếu có những quy chuẩn về hàng hóa đang được áp dụng thì cũng cần chỉ rõ áp dụng theo quy chuẩn nào.

Đặc biệt, đối với những hàng hóa phải đảm bảo giống hàng mẫu 100%, bên bán phải có nghĩa vụ giao hàng hóa giống 100% hàng mẫu các bên đã thống nhất. Bên cạnh đó, đối với những hàng hóa không cần đảm bảo chất lượng giống hàng mẫu 100%, các bên cần thỏa thuận điều khoản giới hạn chênh lệch chất lượng hàng hóa trong Hợp đồng, nếu hàng hóa bên bán cung cấp chất lượng chênh lệch vượt quá giới hạn cho phép thì khi đó mới bị coi vi phạm nghĩa vụ hợp đồng.

Trên đây là bài viết của TNTP về “Bài học thực tiễn cho doanh nghiệp từ tranh chấp hợp đồng mua bán theo mẫu”. Hy vọng bài viết trên cung cấp cho bạn những thông tin hữu ích cho bạn.

Trân trọng,

Quy định của pháp luật về quyền đòi nợ

Quyền đòi nợ với ý nghĩa bên có quyền được yêu cầu bên có nghĩa vụ phải trả một khoản tiền đã ngày càng được coi trọng do sự phổ biến của nó và đáp ứng nhu cầu thuận tiện lưu thông trong các giao dịch dân sự, kinh doanh thương mại… Bài viết sau đây TNTP sẽ giải đáp những thắc mắc của các độc giả liên quan đến chủ đề này.

1. Khái niệm

Quyền đòi nợ là một quyền tài sản được dùng để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự. Theo quy định tại Điều 105 Bộ luật dân sự năm 2015, Quyền tài sản lại là một trong bốn loại tài sản bao gồm: Vật chất, tiền, Giấy tờ có giá và các quyền tài sản.

Đây là một quyền dân sự của chủ thể được pháp luật ghi nhận và bảo vệ, giúp bên có quyền được yêu cầu bên có nghĩa vụ phải thực hiện một nghĩa vụ tài sản đối với mình. Có thể hiểu quyền đòi là quyền mà bên có quyền yêu cầu bên có nghĩa vụ trả một khoản tiền hoặc vật, bao gồm khoản phải thu, quyền yêu cầu thanh toán và quyền yêu cầu khác phát sinh từ hợp đồng hoặc do pháp luật quy định.

Có thể thấy quyền đòi nợ là một tài sản đặc biệt, thể hiện dưới dạng vô hình và chỉ có hiệu lực ràng buộc đối với bên có nghĩa vụ trong trường hợp các bên có giao kết giao dịch dân sự, bên có nghĩa vụ chưa thực hiện đầy đủ nghĩa vụ thanh toán khoản nợ. Trong trường hợp khoản nợ đã được thanh toán, quyền đòi nợ của bên có quyền cũng sẽ chấm dứt.

2. Quy định của pháp luật 

2.1 Chuyển giao quyền đòi nợ

Theo quy định của pháp luật Quyền đòi nợ là một quyền về tài sản, theo đó bên có quyền có thể yêu cầu bên có nghĩa vụ phải trả nợ hoặc có quyền yêu cầu Cơ quan Nhà nước có thẩm quyền buộc bên bên có nghĩa vụ phải trả nợ.

Quyền đòi nợ là một quyền được phép chuyển giao theo quy định về chuyển giao quyền yêu cầu, khi đó bên nhận thế quyền sẽ là bên có quyền đòi nợ đối với bên có nghĩa vụ trả nợ.

Việc chuyển giao quyền đòi nợ sẽ theo các quy định sau:

Về chuyển giao:

Điều 365 “Bộ luật dân sự năm 2015” quy định về việc Chuyển giao quyền yêu cầu:

“Bên có quyền yêu cầu thực hiện nghĩa vụ dân sự có thể chuyển giao quyền yêu cầu đó cho người thế quyền theo thỏa thuận…

Khi bên có quyền yêu cầu chuyển giao cho người thế quyền yêu cầu cho người thế quyền thì người thế quyền trở thành bên có quyền yêu cầu…”

Những quyền yêu cầu sau đây không được chuyển giao:

  • Quyền yêu cầu cấp dưỡng, yêu cầu bồi thường thiệt hại do xâm phạm đến tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, uy tín;
  • Bên có quyền và bên có nghĩa vụ có thỏa thuận là không được chuyển giao quyền yêu cầu;
  • Các trường hợp khác do pháp luật quy định.

Việc chuyển giao quyền yêu cầu không cần có sự đồng ý của bên có nghĩa vụ. Tuy nhiên người chuyển giao quyền yêu cầu phải thông báo bằng văn bản cho bên có nghĩa vụ biết về việc chuyển giao quyền yêu cầu, trừ trường hợp có thỏa thuận khác.

Bên có nghĩa vụ có quyền từ chối thực hiện:

Điều 369 Bộ luật Dân sự có quy định: Quyền từ chối của bên có nghĩa vụ:

“Trường hợp bên có nghĩa vụ không được thông báo về việc chuyển giao quyền yêu cầu và người thế quyền không chứng minh được tính xác thực của việc chuyển giao quyền yêu cầu thì bên có nghĩa vụ có quyền từ chối thực hiện nghĩa vụ đối với người thế quyền.

Trường hợp Bên có nghĩa vụ do không được thông báo về việc chuyển giao quyền yêu cầu mà đã thực hiện nghĩa vụ đối với người chuyển giao quyền yêu cầu thì người thế quyền không được yêu cầu bên có nghĩa vụ phải thực hiện nghĩa vụ đối với mình”.

2.2 Mua bán quyền đòi nợ

Quyền đòi nợ còn xác định là đối tượng mua bán trong hợp đồng mua bán giữa các bên. Tại Điều 450 Bộ luật Dân sự cũng quy định về việc Mua bán quyền tài sản thì Quyền đòi nợ là một quyền tài sản được đem ra để mua bán. Hiện nay, nhiều doanh nghiệp cũng đã kinh doanh hoạt động mua bán nợ.

2.3 Thế chấp quyền đòi nợ

Theo quy định của Bộ luật Dân sự năm 2015 về thế chấp từ Điều 317 đến Điều 327 về thế chấp tài sản thì Quyền đòi nợ là một tài sản nên được quyền thế chấp tài sản theo quy định của Bộ luật này. Quyền đòi nợ được đem thế chấp để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự khác trong hệ thống các văn bản pháp luật về Đăng ký giao dịch bảo đảm.

Hy vọng với những chia sẻ trên đây của TNTP, bạn đọc có thể có được cái nhìn tổng quan về khái niệm và những quy định của pháp luật về quyền đòi nợ.

Trân trọng,

Quan hệ lao động tự nguyện (at-will employment) tại Hoa Kỳ

Tại bài viết trước, chúng tôi đã phân tích về tác động của các quy định trong WARN đến việc sa thải hàng loạt nhân viên Twitter của tỷ phú Elon Musk. Trong bài viết này, TNTP sẽ tiếp tục đưa ra các phân tích về việc quyền lợi của người lao động và người sử dụng lao động tại Hoa Kỳ đều bình đẳng theo tinh thần của Quan hệ lao động tự nguyện (at-will employment).

1. Quan hệ lao động tự nguyện là gì?

Theo Luật lao động Hoa Kỳ, quan hệ lao động tự nguyện (at-will employment) có nội dung quy định về việc người lao động và người sử dụng lao động tại toàn bộ các bang thuộc lãnh thổ Hoa Kỳ (ngoại trừ bang Montana) đều có quyền chấm dứt quan hệ lao động một cách bình đẳng mà không phải chịu bất cứ ràng buộc về mặt pháp lý nào (ngoại trừ các hành vi chấm dứt hợp đồng lao động vi phạm điều cấm của pháp luật).

Như vậy, người sử dụng lao động tại Hoa Kỳ có quyền chấm dứt hợp đồng với nhân viên bất cứ lúc nào vì bất kỳ lý do gì (ngoại trừ các lý do pháp luật cấm hoặc không có lý do) mà không phải chịu trách nhiệm pháp lý. Tương tự, người lao động cũng được tự do chấm dứt mối quan hệ lao động với người sử dụng lao động bất cứ lúc nào, vì bất kỳ lý do gì hoặc thậm chí không vì lý do gì mà không phải chịu bất cứ hậu quả pháp lý nào.

2. Nhìn lại vụ việc giữa Twitter và Elon Musk

Dư luận tại Mỹ đang dậy sóng sau quyết định sa thải hơn 75% nhân viên Twitter của vị tỷ phú Elon Musk. Nhiều nhà hoạt động xã hội và các luật sư tại Hoa Kỳ đã chỉ trích hành vi của Elon Musk là minh chứng rõ ràng của “chủ nghĩa tư bản hiện đại” sẵn sàng chà đạp lên quyền lợi của người lao động vì tiền. Nhiều trường hợp chỉ ra Elon Musk với hình ảnh của một kẻ “độc tài máu lạnh” sẵn sàng thẳng tay đuổi việc những ai dám “nói xấu” mình, như trường hợp của Eric Frohnhoefer – một kỹ sư phần mềm đã gắn bó với Twitter suốt 06 năm đã bị Elon Musk tuyên bố sa thải ngay sau khi anh này có những phát ngôn “đụng độ” với Elon Musk trên một dòng tweet. Eric ngay sau đó đã bị khóa quyền truy cập vào hệ thống nội bộ của Twitter.

Có thể thấy những phát ngôn và hành động của Elon Musk đang gây ra phẫn nộ đối với những người lao động tại Twitter và cả người lao động trên khắp Hoa Kỳ. Tuy nhiên, nếu nhìn theo chiều hướng ngược lại, những nhân viên tại Twitter từ trước đến nay cũng có quyền lợi rất cân bằng đối với ông chủ mới Elon Musk của họ.

Quan hệ lao động tự nguyện tại Hoa Kỳ quy định rất rõ về việc người lao động và người sử dụng lao động tại Hoa Kỳ có quyền tự do tương đương trong mối quan hệ lao động. Bất cứ người lao động nào cũng có quyền tự do làm việc, nếu muốn, họ hoàn toàn có quyền đơn phương nghỉ việc mà thậm chí không cần phải thông báo cho người sử dụng lao động, hoặc thậm chí không cần đến bất cứ lý do nào.

Có thể thấy, các nhân viên tại Twitter cũng hoàn toàn có quyền nghỉ việc bất cứ thời điểm nào họ muốn mà không gặp bất cứ hạn chế hay cần bất cứ lý do nào. Elon Musk cũng không có cách nào ngăn cản các nhân viên muốn nghỉ việc tại Twitter, ngay cả khi việc người đó nghỉ việc có khả năng gây thiệt hại đến Twitter vì người lao động làm việc trên tinh thần tự nguyện sẽ không phải chịu bất cứ ràng buộc nào.

Từ góc nhìn này, có thể thấy Elon Musk hay những nhân viên của Twitter đều có những quyền và lợi ích tương đương, tuy dư luận đang phê phán hành vi của Elon Musk gây thiệt hại đến quyền lợi của người lao động. Nhưng nếu nhìn ở một góc độ khác thì Elon Musk đơn giản là sử dụng đúng quyền của mình một khách khôn ngoan, và những nhân viên của Twitter cũng đã được pháp luật trao cho những quyền tương đương, thậm chí lợi thế hơn so với ông chủ của mình, tuy nhiên có thể họ lại không biết cách sử dụng hoặc không muốn sử dụng chúng một cách hiệu quả.

3. Kết luận

Như vậy, quan điểm của TNTP cho rằng mối quan hệ lao động giữa Elon Musk và các nhân viên của Twitter, cũng như mối quan hệ lao động giữa người lao động và người sử dụng lao động trên khắp lãnh thổ Hoa Kỳ đã được pháp luật nước này xác lập là một cuộc chơi bình đẳng. Bất cứ bên nào trong cuộc chơi cũng đều có những quyền lợi và nghĩa vụ như nhau, và không có sự bất công giữa các bên dưới góc độ pháp luật. Tuy nhiên, cũng như mọi cuộc chơi, những người có lợi nhiều hơn trong mối quan hệ lao động luôn là những người biết tận dụng quyền lợi được pháp luật trao cho một cách hiệu quả.

Trên đây là bài viết đưa ra quan điểm của TNTP về Quan hệ lao động tự nguyện (at-will employment) đối với vụ việc giữa Elon Musk và Twitter, hi vọng bài viết này có ích với các bạn.

Trân trọng,

Tìm hiểu về rủi ro tín dụng, đặc điểm của rủi ro tín dụng

Trong hoạt động vốn và tài chính chúng ta thường xuyên nghe đến thuật ngữ “rủi ro tín dụng”, đặc biệt là đối với tín dụng ngân hàng. Tuy nhiên, để hiểu rõ bản chất của khái niệm này thì không phải ai cũng nắm được. Vậy rủi ro tín dụng là gì? Tại sao lại xảy ra rủi ro tín dụng? Trong bài viết dưới đây, hãy tìm hiểu cùng TNTP.

1. Khái niệm 

Hoạt động tín dụng là những hoạt động diễn ra tại tất cả các ngân hàng. Hoạt động này có tác động mạnh mẽ đến khả năng lưu thông nguồn vốn. Chính sự lưu thông này sẽ tạo ra nguồn thu cho các ngân hàng, không để dòng tiền “đứng im một chỗ”.

Tuy nhiên, không phải hoạt động giao dịch nào cũng đều mang lại nguồn thu mà không có những rủi ro. Tất cả hoạt động giao dịch đều ẩn chứa rất nhiều nguy cơ, có khả năng tác động tiêu cực đến ngân hàng. Những nguy cơ tiềm tàng đó được gọi chung là rủi ro tín dụng.

Có thể hiểu ro tín dụng là tình trạng thâm hụt, tổn thất về tài chính, nguồn vốn, gây ra những khó khăn, trục trặc trong các hoạt động giao dịch của ngân hàng. Cụ thể, ngân hàng sẽ phải đối mặt với vấn đề khách hàng không thể chi trả được số tiền gốc và lãi mà họ đã vay ngân hàng hoặc số tiền cần phải thanh toán hàng tháng đúng thời hạn cho một mục đích nào đó.

2. Đặc điểm 

Rủi ro tín dụng bao gồm 4 đặc điểm chính như sau:

Đặc điểm đầu tiên của phải kể đến đó là nó có tác động rất lớn, gây tổn thất nghiêm trọng đối với ngân hàng. Thậm chí, nếu rủi ro tín dụng không được khống chế và khắc phục một cách hiệu quả nó còn có thể ảnh hưởng đến nền kinh tế của một quốc gia, sự phát triển của một đất nước.

Ví dụ trong trường hợp khách hàng thực hiện vay tiền tại ngân hàng nhưng không thể thực hiện theo đúng những điều khoản trong giao kết mà số tiền lại quá lớn thì rất có thể sẽ khiến cho ngân hàng lâm vào cảnh lao đao. Do đó để tránh rủi ro trong hoạt động tín dụng, các ngân hàng sẽ phải đề ra kế hoạch cụ thể để ngăn chặn tình trạng này xảy ra thường xuyên hoặc quá nghiêm trọng.

Rủi ro tín dụng có thể xảy ra ở nhiều mảng, nhiều lĩnh vực khác nhau trong hoạt động tín dụng ngân hàng bao gồm bảo lãnh, tài trợ thương mại, chứng khoán,… Nhìn chung, các hoạt động tín dụng có quy mô càng rộng, có khả năng đem lại nguồn lợi nhuận cao thì càng ẩn chứa nhiều rủi ro.

Hoạt động quản lý rủi ro là việc ngân hàng tác động và điều chỉnh các hoạt động tín dụng nhằm ngăn chặn và hạn chế tối đa những ảnh hưởng xấu đến nguồn tiền. Việc làm này được thực hiện bởi nhiều công cụ khác nhau từ công cụ rà soát đến công cụ quản lý cũng như hệ thống cán bộ nhân viên trong ngân hàng.

3. Nguyên nhân rủi ro tín dụng

Nguyên nhân khách quan

a) Các yếu tố về môi trường kinh tế

Chu kỳ phát triển kinh tế:

Hoạt động tín dụng nếu được đặt trong một môi trường kinh tế có tăng trưởng ổn định thì tất nhiên nó cũng phải đối mặt với ít rủi ro hơn. Ngược lại, nếu môi trường kinh tế không đáp ứng được yếu tố ổn định và an toàn thì các hoạt động tín dụng chắc chắn sẽ phải đối mặt với nhiều vấn đề và rủi ro.

Những vấn đề và rủi ro này nếu không được giải quyết sẽ dẫn đến khủng hoảng, suy thoái kinh tế. Về phía ngân hàng, nó có thể gây ra thua lỗ và phá sản.

Rủi ro do quá trình tự do hóa tài chính, hội nhập quốc tế:

Có thể thấy, xu hướng toàn cầu hóa đang diễn ra nhanh và mạnh. Điều này cũng dẫn đến nguy cơ nợ xấu gia tăng không kiểm soát. Lúc này môi trường kinh tế là một môi trường có tính cạnh tranh cao, thậm chí là khốc liệt.

Khách hàng cũng chính là đối tượng bị ảnh hưởng trực tiếp từ xu hướng này. Do đó mà họ sẽ phải đối mặt với nguy cơ thua lỗ cao hơn, không thể chi trả cho các khoản tiền đã vay từ ngân hàng.

Đồng thời, sự cạnh tranh với các ngân hàng quốc tế cũng là một chướng ngại vật lớn đối với các ngân hàng trong nước. Nếu ngân hàng không thể trụ vững được trước làn sóng xâm nhập của các ngân hàng nước ngoài thì rất có thể sẽ tự mình đào thải chính mình.

b) Các yếu tố về môi trường pháp lý

Nhiều kẽ hở trong áp dụng thi hành luật pháp:

Thực tế cho thấy pháp luật hiện hành tại Việt Nam vẫn chưa thể hiện được tính đồng, vẫn còn nhiều khe hở khiến nguy cơ rủi ro tín dụng xảy đến với ngân hàng cao hơn.

Sử dụng vốn sai mục đích, không có thiện chí trong việc trả nợ:

Mặc dù khi trình bày hồ sơ vay vốn, khách hàng đều sẽ phải đưa ra mục đích sử dụng rõ ràng và chứng minh khả năng tài chính để trả nợ đúng hạn. Tuy nhiên rất nhiều khách hàng sau khi vay vốn thành công lại sử dụng sai mục đích, thậm chí là không có thiện chí trong việc trả nợ dẫn đến các rủi ro về tài chính đối với ngân hàng.

Khả năng quản lý hoạch định chiến lược kinh doanh kém:

Nếu một doanh nghiệp có chiến lược kinh doanh không được quản lý hoạch định tốt sẽ dẫn đến thâm hụt ngân sách và ảnh hưởng trực tiếp đến việc trả nợ.

Tình hình tài chính doanh nghiệp yếu kém, thiếu minh bạch:

Do hoạt động cạnh tranh, nhiều ngân hàng sẵn sàng vì doanh số trước mắt mà không rà soát kỹ hoặc lơ là trong việc xác thực các thông tin trong các hồ sơ vay vốn của các doanh nghiệp. Điều này dẫn đến việc các doanh nghiệp không đủ điều kiện hoặc có điểm tín dụng thấp vay vốn gây tiềm ẩn rủi ro đối với ngân hàng về việc phát sinh nợ xấu trong tương lai.

Nguyên nhân chủ quan gây ra rủi ro tín dụng của ngân hàng

Rủi ro do chính sách tín dụng của ngân hàng.

Chính sách tín dụng không rõ ràng làm cho hoạt động tín dụng trở nên lệch lạc, dẫn đến việc cấp tín dụng sai lầm, tạo ra những kẽ hở cho người sử dụng vốn lách luật và cuối cùng thì ngân hàng lại phải chịu thiệt thòi.

Do những yếu kém và thiếu sót của cán bộ tín dụng:

Cán bộ tín dụng không đủ năng lực, trình độ hoặc còn những thiếu sót trong quá trình quản lý, kiểm soát các hoạt động tín dụng cũng sẽ là nguyên nhân dẫn đến tình trạng cấp vốn cho các dự án không có hiệu quả, điều này sẽ gây ra rủi ro lớn cho ngân hàng.

Thiếu giám sát và quản lý sau cho vay

Việc giám sát và quản lý sau cho vay là rất cần thiết và phải được thực hiện một cách thường xuyên. Điều này sẽ giúp các cán bộ tín dụng kiểm soát và nắm bắt được một cách tốt nhất các vấn đề từ phía khách hàng. Từ đó phát hiện được những nguy cơ tiềm ẩn và xây dựng biện pháp đối phó thích hợp.

Ngày nay, tình hình cạnh tranh giữa các ngân hàng ngày càng gay gắt, do đó hiếm có sự hợp tác với nhau để nắm bắt kịp thời thông tin về khách hàng vay. Chính vì thiếu sự trao đổi thông tin giữa các ngân hàng mà một khách hàng có điểm tín dụng thấp ở một ngân hàng có thể đến các ngân hàng khác để vay tiền, dẫn đến rủi ro chia đều cho tất cả các ngân hàng.

Trên đây là bài phân tích của TNTP về rủi ro tín dụng cũng như đặc điểm, nguyên nhân của loại rủi ro này. Hy vọng bài viết này có ích với các bạn.

Trân trọng,

Công ty Luật TNHH Quốc Tế TNTP và Các Cộng Sự

  • Văn phòng tại Hồ Chí Minh:
    Phòng 1901, Tầng 19 Tòa nhà Saigon Trade Center, 37 Tôn Đức Thắng, Phường Bến Nghé, Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh
  • Văn phòng tại Hà Nội:
    Số 2, Ngõ 308 Tây Sơn, Phường Thịnh Quang, Quận Đống Đa, Hà Nội
  • Email: ha.nguyen@tntplaw.com


    Bản quyền thuộc về: Công ty Luật TNHH Quốc Tế TNTP và Các Cộng Sự