Trong hoạt động tín dụng của các tổ chức tín dụng nói chung và ngân hàng nói riêng, để đảm bảo nghĩa vụ thanh toán của bên vay với ngân hàng, các ngân hàng thường tiến hành các biện pháp đảm bảo thực hiện nghĩa vụ của bên vay, một tronh những biện pháp phổ biến nhất là thế chấp tài sản. Tuy nhiên, ngân hàng có được quyền thu giữ tài sản bảo đảm mà không cần có sự đồng ý của Bên thế chấp tài sản hay không? Trong bài viết sau, luật sư của TNTP sẽ đưa ra quan điểm về vấn đề này.

1. Thế chấp tài sản là gì

• Theo quy định tại Điều 317 Bộ luật Dân sự 2015, Thế chấp tài sản là việc một bên (sau đây gọi là bên thế chấp) dùng tài sản thuộc sở hữu của mình để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ và không giao tài sản cho bên kia (sau đây gọi là bên nhận thế chấp). Ngoài ra các bên có thể thỏa thuận giao tài sản thế chấp cho người thứ ba giữ.

Như vậy, việc thế chấp tài sản đối với hoạt động cho vay của ngân hàng nhằm mục đích đảm bảo nghĩa vụ thanh toán của bên vay tiền. Khi đó, bên vay vẫn có quyền sở hữu với tài sản, được sử dụng tài sản và khai thác giá trị của tài sản thế chấp nếu các bên có thỏa thuận, tuy nhiên tài sản này phải được đăng ký biện pháp bảo đảm và không được phép chuyển nhượng cho bất cứ bên nào khác khi vẫn đang bị thế chấp.

2. Đăng ký tài sản thế chấp

• Theo quy định tại Điều 292 Bộ luật Dân sự 2015 về các biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ, thế chấp tài sản là một trong các biện pháp đảm bảo thực hiện nghĩa vụ trong quan hệ dân sự giữa các bên.

• Đồng thời áp dụng Điều 298 Bộ luật Dân sự 2015 về đăng ký biện pháp bảo đảm, theo đó việc thế chấp tài sản phải được đăng ký theo đúng quy định của pháp luật tại các cơ quan có thẩm quyền.

Như vậy, việc thế chấp tài sản đối với hoạt động cho vay của ngân hàng cũng sẽ phải được đăng ký tài sản bảo đảm tại các cơ quan có thẩm quyền để đảm bảo tính hợp pháp.

3. Quyền thu giữ tài sản bảo đảm của Ngân hàng

• Do tải sản bảo đảm vẫn thuộc quyền sở hữu của bên bảo đảm nên việc thu giữ các tài sản này phải tuân thủ các điều kiện mà các bên đã thỏa thuận, cũng như quy định của pháp luật.

Theo quy định tại Điều 299 Bộ luật Dân sự 2015, các trường hợp được xử lý tài sản bảo đảm bao gồm:

– Đến hạn thực hiện nghĩa vụ được bảo đảm mà bên có nghĩa vụ không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ.
– Bên có nghĩa vụ phải thực hiện nghĩa vụ được bảo đảm trước thời hạn do vi phạm nghĩa vụ theo thỏa thuận hoặc theo quy định của luật.
– Trường hợp khác do các bên thỏa thuận hoặc luật có quy định.

Như vậy, trong trường hợp bên vay không thực hiện đúng nghĩa vụ thanh toán, hoặc giữa bên vay và ngân hàng có thỏa thuận về trường hợp khác được phép xử lý tài sản thế chấp, thì tài sản bảo đảm của bên vay sẽ được xử lý theo quy định của pháp luật.

• Đồng thời áp dụng quy định tại Điều 303 Bộ luật Dân sự 2015, theo đó Bên bảo đảm và bên nhận bảo đảm có quyền thỏa thuận một trong các phương thức xử lý tài sản cầm cố, thế chấp sau đây:

a) Bán đấu giá tài sản;
b) Bên nhận bảo đảm tự bán tài sản;
c) Bên nhận bảo đảm nhận chính tài sản để thay thế cho việc thực hiện nghĩa vụ của bên bảo đảm;
d) Phương thức khác.

Trường hợp không có thỏa thuận về phương thức xử lý tài sản bảo đảm theo quy định tại thì tài sản được bán đấu giá, trừ trường hợp luật có quy định khác.

Như vậy, có thể thấy một trong những phương thức xử lý tài sản cầm cố, thế chấp là việc bên nhận bảo đảm nhận chính tài sản để thay thế cho việc thực hiện nghĩa vụ của bên bảo đảm. Nói cách khác, ngân hàng có quyền thu giữ tài sản đảm bảo để thay thế cho việc thực hiện nghĩa vụ của bên thế chấp.

4. Ngân hàng có được quyền tiến hành thu giữ tài sản mà không cần có sự đồng ý của Bên thế chấp không?

• Áp dụng quy định tại Khoản 2 Điều 7 Nghị quyết 42/2017/QH14 về thí điểm xử lý nợ xấu của tổ chức tín dụng, theo đó các tổ chức tín dụng được thu giữ tài sản đảm bảo mà không cần sự đồng ý của bên thế chấp khi đáp ứng đủ 05 điều kiện sau:

– Khi xảy ra một trong các trường hợp xử lý tài sản bảo đảm theo quy định tại Điều 299 Bộ luật Dân sự.

– Tại hợp đồng bảo đảm có thỏa thuận về việc bên bảo đảm đồng ý cho TCTD có quyền thu giữ tài sản bảo đảm của khoản nợ xấu khi xảy ra trường hợp xử lý tài sản bảo đảm theo quy định của pháp luật.

– Giao dịch bảo đảm hoặc biện pháp bảo đảm đã được đăng ký theo đúng quy định của pháp luật.

– Tài sản bảo đảm không phải là tài sản tranh chấp trong vụ án đã được thụ lý nhưng chưa được giải quyết hoặc đang được giải quyết tại tòa án có thẩm quyền; không đang bị tòa án áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời; không đang bị kê biên hoặc áp dụng biện pháp bảo đảm thi hành án theo quy định của pháp luật.

– TCTD đã hoàn thành nghĩa vụ công khai thông tin theo quy định.

Do đó, có thể thấy nhiều tổ chức tín dụng đã áp dụng quy định trên để tiến hành thu giữ tài sản đảm bảo khi có đủ 05 điều kiện tại Nghị quyết 42/2017 mà không cần sự đồng ý của bên thế chấp tài sản. Tuy nhiên, Nghị quyết 42/2017 đã hết hiệu lực kể từ ngày 01/01/2024, do đó đến thời điểm hiện tại, theo quy định của pháp luật thì các tổ chức tín dụng không thể tiến hành thu giữ tài sản bảo đảm khi không có sự đồng thuận của bên thế chấp tài sản.

• Tuy nhiên, áp dụng quy định tại Điều 301 Bộ luật Dân sự 2015, theo đó trường hợp người đang giữ tài sản không giao tài sản thì bên nhận bảo đảm có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết, trừ trường hợp luật liên quan có quy định khác.

Như vậy, trong trường hợp bên thế chấp tài sản bảo đảm không giao tài sản thì ngân hàng có quyền yêu cầu Tòa án có thẩm quyền giải quyết. Phải thông qua quá trình tố tụng mới có thể tiến hành hoạt động thu giữ tài sản thế chấp. Việc này đảm bảo quyền lợi của bên vay và đảm bảo không trao quá nhiều quyền cho ngân hàng được đơn phương tiến hành các hoạt động thu giữ tài sản.

Do bản chất của tài sản đảm bảo tuy đã bị thế chấp tại ngân hàng nhưng quyền sở hữu vẫn thuộc về bên thế chấp. Việc ngân hàng được tự ý tiến hành thu giữ tài sản thế chấp mà không cần thông qua ý kiến của bên thế chấp có thể xâm phạm đến quyền lợi của bên thế chấp trong khi họ vẫn đang có quyền sở hữu tài sản này. Do đó, TNTP cho rằng theo quy định của pháp luật tại thời điểm hiện tại, Ngân hàng tuy có quyền thu giữ tài sản nhưng không có quyền thực thi quyền thu giữ tài sản mà không cần có sự đồng ý của Bên thế chấp, việc thu giữ tài sản sẽ được giải quyết theo thủ tục tố tụng để đảm bảo quyền lợi của các bên trong giao dịch bảo đảm.

Trên đây là bài viết của luật sư TNTP về chủ đề: “Ngân hàng có được quyền thu giữ tài sản mà không cần có sự đồng ý của Bên thế chấp tài sản?”. Mong rằng bài viết này đem lại giá trị cho các độc giả.

Trân trọng,