Skip to main content

Author: Phạm Huyền

Chế tài phạt vi phạm trong hợp đồng thương mại

Trong các chế tài xử lý vi phạm khi thực hiện hợp đồng, phạt vi phạm được coi là một trong những chế tài thường được các bên sử dụng, bên cạnh chế tài buộc bồi thường thiệt hại. Việc thỏa thuận áp dụng phạt vi phạm sẽ giúp các bên có ý thức thực hiện hợp đồng nghiêm túc, trách nhiệm hơn và là căn cứ để bên bị vi phạm buộc bên vi phạm chịu khoản phạt nhất định, nhằm khắc phục phần nào hậu quả do hành vi vi phạm mang lại.

Quy định của pháp luật về chế tài phạt vi phạm trong hợp đồng

Vấn đề phạt vi phạm được quy định trong Bộ luật Dân sự năm 2015 (“BLDS”) và Luật Thương mại năm 2005 (“LTM”), theo đó phạt vi phạm được hiểu là sự thỏa thuận của các bên trong hợp đồng, theo đó bên vi phạm nghĩa vụ phải nộp một khoản tiền cho bên bị vi phạm. Như vậy, để áp dụng chế tài phạt vi phạm thì các bên bắt buộc phải có sự thỏa thuận về phạt vi phạm trong hợp đồng.

BLDS và LTM tôn trọng sự thỏa thuận của các bên về phạt vi phạm, tuy nhiên pháp luật đặt ra các giới hạn nhất định về mức phạt vi phạm trong một số trường hợp. Khoản 2 Điều 418 BLDS quy định rằng mức phạt vi phạm do các bên thỏa thuận, trừ trường hợp luật liên quan có quy định khác. Điều 301 LTM cũng quy định về mức phạt vi phạm, theo đó mức phạt đối với vi phạm nghĩa vụ hợp đồng hoặc tổng mức phạt đối với nhiều vi phạm không quá 8% giá trị phần nghĩa vụ hợp đồng bị vi phạm, trừ trường hợp phạt vi phạm khi kết quả giám định sai.

Trong lĩnh vực thương mại, các bên cần xác định, phân biệt rõ ràng giữa giá trị phần nghĩa vụ hợp đồng bị vi phạm với giá trị hợp đồng, theo đó giá trị hợp đồng có nội hàm rộng hơn so với giá trị phần nghĩa vụ hợp đồng bị vi phạm. Bên vi phạm sẽ phải chịu mức phạt tính trên giá trị phần nghĩa vụ hợp đồng bị vi phạm, mà không phải tính trên giá trị của hợp đồng. Ví dụ, trong hợp đồng mua bán, khi bên mua thanh toán chậm, bên mua chỉ phải chịu phạt vi phạm trên giá trị bị thanh toán chậm mà không phải toàn bộ giá trị hợp đồng.

Điều kiện áp dụng chế tài phạt vi phạm trong hợp đồng

Để có thể áp dụng chế tài phạt vi phạm, các bên cần phải đáp ứng đủ 03 điều kiện sau:

  • Các bên có thỏa thuận phạt vi phạm trong hợp đồng, việc phạt vi phạm có thể được áp dụng khi một hoặc các bên thực hiện một hoặc nhiều hành vi vi phạm hợp đồng. Trong trường hợp các bên không thỏa thuận trong hợp đồng thì bên bị vi phạm sẽ không được áp dụng chế tài này khi bên còn lại có hành vi vi phạm. Đây là quy định mang tính nguyên tắc, bắt buộc các bên phải thỏa thuận nếu như muốn áp dụng chế tài phạt vi phạm. Thỏa thuận phạt vi phạm có thể đã tồn tại kể từ khi các bên ký kết hợp đồng hoặc được các bên bổ sung trong quá trình thực hiện hợp đồng.

Trường hợp các bên thỏa thuận mức phạt vi phạm vượt quá mức phạt do pháp luật quy định thì khi phát sinh tranh chấp, mức phạt vi phạm sẽ được ấn định bằng mức phạt do pháp luật quy định. Trong lĩnh vực thương mại, nếu các bên thỏa thuận mức phạt vượt quá 8% giá trị phần nghĩa vụ hợp đồng bị vi phạm thì phần vượt quá không có hiệu lực và mức phạt chỉ được xác định đúng theo luật định.

  • Một hoặc các bên thực hiện một hoặc nhiều hành vi vi phạm hợp đồng, và theo thỏa thuận trong hợp đồng, khi thực hiện một hoặc các hành vi này, bên vi phạm phải chịu phạt vi phạm. Việc thỏa thuận về phạt vi phạm chỉ được coi là điều kiện cần, còn để việc phạt vi phạm phát sinh trên trên thực tế thì cần phải đáp ứng thêm điều kiện đủ, chính là một hoặc các bên thực hiện một hoặc nhiều hành vi vi phạm hợp đồng.
  • Hành vi vi phạm hợp đồng không thuộc các trường hợp miễn trách nhiệm. Các trường hợp được miễn trách nhiệm bao gồm:
  • Xảy ra trường hợp miễn trách nhiệm mà các bên đã thỏa thuận;
  • Xảy ra sự kiện bất khả kháng, sự kiện bất khả kháng là sự kiện xảy ra một cách khách quan, không thể lường trước được và không thể khắc phục được mặc dù đã áp dụng mọi biện pháp cần thiết và khả năng cho phép;
  • Hành vi vi phạm của một bên hoàn toàn do lỗi của bên kia, trường hợp bên vi phạm có một phần lỗi thì sẽ phải chịu mức phạt vi phạm tương ứng với phần lỗi của mình;
  • Hành vi vi phạm của một bên do thực hiện quyết định của cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền mà các bên không thể biết được vào thời điểm giao kết hợp đồng.

Bên vi phạm hợp đồng sẽ có nghĩa vụ chứng minh về các trường hợp được miễn trách nhiệm của mình, nếu không chứng minh được thì đồng nghĩa với việc bên vi phạm không được miễn trách nhiệm, thay vào đó sẽ phải chịu các khoản phạt vi phạm theo thỏa thuận trong hợp đồng.

Phân biệt quy định phạt vi phạm trong BLDS và phạt vi phạm trong LTM

  • Về lĩnh vực áp dụng: phạt vi phạm trong BLDS áp dụng đối với các vi phạm về lĩnh vực dân sự nói chung, còn phạt vi phạm trong Luật thương mại được áp dụng đối với các hoạt động kinh doanh thương mại, diễn ra chủ yếu giữa các thương nhân, bao gồm hoạt động nhằm mục đích sinh lợi như mua bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ, đầu tư, xúc tiến thương mại,… Thương nhân được xác định là tổ chức kinh tế được thành lập hợp pháp, cá nhân hoạt động thương mại một cách độc lập, thường xuyên và có đăng ký kinh doanh.
  • Về mức phạt vi phạm: BLDS không quy định về giới hạn mức phạt vi phạm, trừ khi pháp luật chuyên ngành có quy định đặc thù, theo đó các bên có thể tự do thỏa thuận về mức phạt vi phạm. LTM giới hạn về mức phạt vi phạm, cụ thể là mức phạt sẽ do các bên thỏa thuận nhưng sẽ không được quá 8% giá trị phần nghĩa vụ bị vi phạm, trừ trường hợp phạt vi phạm khi kết quả giám định sai.

Doanh nghiệp có bắt buộc thỏa thuận phạt vi phạm trong quá trình soạn thảo hợp đồng?

Phạt vi phạm là một trong các chế tài để xử lý, giải quyết các vi phạm của một hoặc các bên trong quá trình xác lập, thực hiện và chấm dứt hợp đồng. Pháp luật hiện hành không quy định về việc các bên phải thỏa thuận về phạt vi phạm, tuy nhiên để áp dụng được chế tài này thì các bên phải thỏa thuận trong hợp đồng.

Các bên nên thỏa thuận về chế tài phạt vi phạm trong hợp đồng để:

(i) Đảm bảo cho việc thực hiện hợp đồng;

(ii) Tạo ra sự ngăn ngừa, giáo dục đối với bên vi phạm;

(iii) Giúp bên bị vi phạm có căn cứ chứng minh, đảm bảo được quyền và lợi ích hợp pháp của mình khi bị xâm phạm.

Như đã đề cập ở trên, doanh nghiệp mong muốn áp dụng phạt vi phạm thì cần phải thỏa thuận rõ ràng trong hợp đồng về các hành vi vi phạm hợp đồng sẽ phải chịu phạt vi phạm và mức phạt vi phạm tương ứng với từng hành vi, thời hạn phải thực hiện nghĩa vụ nộp khoản tiền phạt vi phạm,…

Trên đây là bài viết “Chế tài phạt vi phạm trong hợp đồng thương mại”. Chúng tôi hy vọng bài viết này có ích với các bạn.

 

Lưu ý đối với bị đơn khi tham gia giải quyết tranh chấp bằng trọng tài

Về nguyên tắc, việc giải quyết tranh chấp bằng Trọng tài thương mại sẽ được thực hiện khi các bên có thỏa thuận Trọng tài. Trong đó, bị đơn là người bị nguyên đơn khởi kiện tại Trung tâm trọng tài để yêu cầu cơ quan này giải quyết tranh chấp. Để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình, bị đơn cần lưu ý điều gì khi tham gia giải quyết tranh chấp bằng Trọng tài? Hãy cùng theo dõi bài viết dưới đây của TNTP để tìm câu lời.

Thời điểm nhận thông báo đơn khởi kiện

Khi nguyên đơn khởi kiện bị đơn tại Trung tâm trọng tài, cơ quan này sẽ có trách nhiệm gửi thông báo khởi kiện và các tài liệu khác có liên quan cho bị đơn.

Theo Điều 32 Luật Trọng tài thương mại 2010 (“Luật TTTM 2010”), nếu các bên không có thỏa thuận khác hoặc quy tắc tố tụng của Trọng tài không có quy định khác, trong thời hạn 10 ngày, kể từ ngày nhận được đơn khởi kiện, các tài liệu kèm theo và chứng từ nộp tạm ứng phí trọng tài, Trung tâm trọng tài sẽ gửi cho bị đơn bản sao đơn khởi kiện của nguyên đơn và những tài liệu khác kèm theo đơn khởi kiện.

Thời điểm bị đơn nhận được thông báo đơn khởi kiện là lúc bị đơn chính thức biết được mình đang bị khởi kiện tại Trung tâm trọng tài. Cũng là lúc bị đơn cần chuẩn bị phương án để bảo vệ quyền và lợi ích của mình một cách tốt nhất.

Thời điểm gửi bản tự bảo vệ cho Trung tâm trọng tài và nguyên đơn

Căn cứ  Khoản 2 Điều 35 Luật TTTM 2010, đối với vụ tranh chấp được giải quyết tại Trung tâm trọng tài, nếu các bên không có thỏa thuận khác hoặc quy tắc tố tụng của Trung tâm trọng tài không có quy định khác thì trong thời hạn 30 ngày, kể từ ngày nhận được đơn khởi kiện và các tài liệu kèm theo, bị đơn phải gửi cho Trung tâm trọng tài bản tự bảo vệ. Thời hạn này có thể được gia hạn nếu một bên hoặc các bên có yêu cầu.

Trường hợp bị đơn cho rằng vụ tranh chấp không thuộc thẩm quyền của Trọng tài, không có thoả thuận trọng tài, thoả thuận trọng tài vô hiệu hoặc thỏa thuận trọng tài không thể thực hiện được thì cũng phải nêu rõ điều đó trong bản tự bảo vệ. Bị đơn có thể đưa ra quan điểm phản đối về Thỏa thuận trọng tài, nếu không Bị đơn sẽ bị mất quyền phản đối.

Theo đó, bản tự bảo vệ gồm có các nội dung sau đây:

  • Ngày, tháng, năm làm bản tự bảo vệ;
  • Tên và địa chỉ của bị đơn;
  • Cơ sở và chứng cứ tự bảo vệ, nếu có;
  • Tên và địa chỉ của người được bị đơn chọn làm Trọng tài viên hoặc đề nghị chỉ định Trọng tài viên.

Bị đơn vẫn phải chọn Trọng tài viên hoặc yêu cầu trung tâm trọng tài chỉ định trọng tài viên.

Nếu bị đơn không nộp bản tự bảo vệ thì quá trình tố tụng trọng tài vẫn được tiến hành bình thường. Do đó, bị đơn cần đặc biệt lưu ý về thời điểm gửi và nội dung bản tự bảo vệ để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình một cách tốt nhất.

Quyền kiện lại nguyên đơn của bị đơn

Căn cứ Điều 36 Luật TTTM 2010, bị đơn có quyền kiện lại nguyên đơn về những vấn đề liên quan đến vụ tranh chấp.

  • Đơn kiện lại của bị đơn phải căn cứ vào thỏa thuận trọng tài mà dựa vào đó nguyên đơn đã khởi kiện Bị đơn .
  • Đơn kiện lại phải bằng lập thành văn bản riêng, độc lập với Bản tự bảo vệ

Đơn kiên lại phải được gửi tới trung tâm trọng tài cùng thời điểm gửi Bản tự bảo vệ; và

  • Đơn kiện lại được giải quyết đồng thời bởi chính Hội đồng trọng tài giải quyết Đơn khởi kiện của nguyên đơn.

Thương lượng, hòa giải khi giải quyết tranh chấp bằng Trọng tài

Căn cứ Điều 38 Luật TTTM 2010, các bên có quyền tự mình thương lượng, thỏa thuận chấm dứt việc giải quyết tranh chấp. Trường hợp các bên tự thỏa thuận được với nhau chấm dứt việc giải quyết tranh chấp thì có quyền yêu cầu Chủ tịch Trung tâm trọng tài ra quyết định đình chỉ giải quyết tranh chấp.

Thực tế, khi bị khởi kiện tại Tòa án hay Trọng tài, các bên sẽ luôn ưu tiên việc tự thương lượng, hòa giải với nhau để giải quyết tranh chấp. Phương án này sẽ giúp các bên tiết kiệm thời gian, chi phí và tiền bạc. Vì vậy, khi bị khởi kiện tại Trọng tài, bị đơn có thể cân nhắc lựa chọn phương án này để giải quyết tranh chấp với nguyên đơn.

Trên đây là nội dung bài viết “Lưu ý đối với bị đơn khi tham gia giải quyết tranh chấp bằng Trọng tài”. Hi vọng bài viết của TNTP hữu ích đối với quý độc giả.

Trân trọng.

Điều khoản giải quyết tranh chấp trong hợp đồng kinh tế và lưu ý cho các bên

Giải quyết tranh chấp là điều khoản xuất hiện trong hầu hết các hợp đồng kinh tế nhằm quy định hướng giải quyết cho các bên khi có tranh chấp xảy ra. Theo đó, từ điều khoản này, các bên trong hợp đồng sẽ giải quyết tranh chấp bằng các phương thức như thương lượng, hòa giải, Trọng tài thương mại hoặc khởi kiện tại Tòa án. Trong bài viết dưới đây, TNTP xin gửi đến bạn đọc một số nội dung mà doanh nghiệp cần lưu ý về điều khoản Giải quyết tranh chấp trong hợp đồng kinh tế.

Hợp đồng kinh tế là gì?

Hợp đồng kinh tế là sự thỏa thuận giữa các bên về việc xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự trong hoạt động sản xuất, trao đổi hàng hoá, cung ứng dịch vụ và các thỏa thuận khác có liên quan đến mục đích kinh doanh.

Tùy thuộc vào các bên ký kết mà hợp đồng kinh tế được thể hiện dưới các hình thức khác nhau như bằng lời nói, bằng văn bản hoặc các hình thức khác…

Điều khoản giải quyết tranh chấp là gì?

Giải quyết tranh chấp trong hợp đồng kinh tế là điều khoản quy định về các phương thức giải quyết khi có tranh chấp xảy ra. Đây là điều khoản bắt buộc đóng vai trò rất quan trọng và thường nằm ở vị trí gần cuối trong nội dung hợp đồng.

Theo đó, tại điều khoản này các bên sẽ thỏa thuận về các phương thức giải quyết tranh chấp như:

  • Thương lượng;
  • Hòa giải giữa các bên;
  • Giải quyết tranh chấp tại Trọng tài thương mại; hoặc
  • Khởi kiện tại Tòa án.

Doanh nghiệp cần lưu ý gì về điều khoản Giải quyết tranh chấp trong hợp đồng kinh tế?

Trên thực tiễn, khi ký kết các hợp đồng kinh tế, thay vì quá tập trung vào điều khoản giải quyết tranh chấp, các bên thường chú trọng vào phạm vi công việc, giá cả, thời hạn thực hiện công việc, phương thức thanh toán và thời hạn thanh toán.

Ngoài ra, xuất phát từ lý do không lường trước được hậu quả là sẽ phát sinh tranh chấp nên khi soạn thảo và ký kết hợp đồng, các bên thường xem nhẹ điều khoản giải quyết tranh chấp. Khi có tranh chấp xảy ra, các bên mới xem lại điều khoản này thì trong hợp đồng lại không quy định rõ dẫn đến các bên gặp nhiều khó khăn trong quá trình giải quyết tranh chấp.

Do đó, để hạn chế các vấn đề nêu trên, khi ký kết hợp đồng kinh tế, các bên cần chú trọng đến việc xây dựng điều khoản giải quyết tranh chấp. Đồng thời cần lưu ý những nội dung sau đây:

Thứ nhất, trong hợp đồng cần thể hiện rõ, khi có tranh chấp xảy ra thì các bên áp dụng phương thức giải quyết tranh chấp nào?

Thứ hai, các bên cần thỏa thuận về thứ tự ưu tiên của các phương thức giải quyết tranh chấp. Ví dụ, các bên có thể thỏa thuận ưu tiên phương thức giải quyết tranh chấp bằng thương lượng, hòa giải.

Thứ ba, trường hợp lựa chọn phương thức giải quyết tranh chấp là Trung tâm trọng tài thì cần xác định rõ tổ chức trọng tài nào, địa điểm, phân định chi phí, cam kết của các bên,…

Doanh nghiệp có thể thỏa thuận lựa chọn cả Trọng tài thương mại và Tòa án giải quyết tranh chấp hay không?

Thực tế, việc các bên vừa thỏa thuận giải quyết tranh chấp tại Trung tâm trọng tài vừa giải quyết tranh chấp tại Tòa án là điều thường xuyên xảy ra. Tuy nhiên, thỏa thuận này có phù hợp với quy định của pháp luật không? Và nếu xảy ra tranh chấp, một bên khởi kiện ra Tòa án, bên còn lại yêu cầu Trọng tài thương mại giải quyết thì thẩm quyền thuộc về cơ quan nào?

Các vấn đề nêu trên đã được các nhà làm luật quy định rõ để có thể áp dụng trên thực tế một cách hợp lý nhất. Theo đó, điều khoản giải quyết tranh chấp trong hợp đồng kinh tế do các bên thỏa thuận. Việc đưa cả hai phương thức giải quyết tranh chấp bằng Trọng tài thương mại và Tòa án vào điều khoản giải quyết tranh chấp là không trái với quy định của pháp luật.

Trường hợp một bên khởi kiện ra Tòa án, bên còn lại yêu cầu Trọng tài giải quyết thì pháp luật có quy định theo hướng ưu tiên Trọng tài thương mại. Cụ thể, nếu một trong các bên yêu cầu Tòa án giải quyết tranh chấp, thì ngay sau khi nhận được đơn khởi kiện, Tòa án phải xác định một trong các bên đã yêu cầu Trọng tài giải quyết hay chưa. Nếu các bên tranh chấp đã có thỏa thuận trọng tài thì Tòa án phải từ chối thụ lý, trừ trường hợp thỏa thuận trọng tài vô hiệu hoặc thỏa thuận trọng tài không thể thực hiện được (Điều 6 Luật Trọng tài Thương mại 2010).

Trên đây là nội dung bài viết “Điều khoản giải quyết tranh chấp trong Hợp đồng kinh tế và lưu ý cho các bên” TNTP gửi đến bạn đọc. Hy vọng những chia sẻ nêu trên hữu ích đối với độc giả.

Trân trọng.

Pháp nhân có phải chịu trách nhiệm hình sự không?

Pháp nhân có phải chịu trách nhiệm hình sự không? Nếu có, pháp nhân phải chịu trách nhiệm hình sự khi thỏa mãn các điều kiện nào? Đây là các câu hỏi mà các doanh nghiệp quan tâm khi tiến hành hoạt động kinh doanh. Để trả lời cho các câu hỏi này, trong bài viết này, chúng tôi sẽ phân tích về căn cứ và phạm vi chịu trách nhiệm hình sự của pháp nhân.

1. Có phải tất cả pháp nhân phải chịu trách nhiệm hình sự không?

Theo quy định tại Điều 74 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 (“BLHS”), không phải mọi pháp nhân đều phải chịu trách nhiệm hình sự, chỉ duy nhất pháp nhân thương mại (“PNTM”) phải chịu trách nhiệm hình sự.

Pháp nhân bao gồm hai loại là PNTM và pháp nhân phi thương mại. PNTM là pháp nhân có mục tiêu chính là tìm kiếm lợi nhuận và lợi nhuận được chia cho các thành viên. PNTM bao gồm doanh nghiệp và các tổ chức kinh tế khác.

2. Pháp nhân thương mại phải chịu trách nhiệm hình sự khi thỏa mãn các điều kiện nào? 

PNTM chỉ chịu trách nhiệm hình sự khi thỏa mãn các điều kiện:

Thứ nhất, hành vi phạm tội được thực hiện nhân danh PNTM. Hành vi phạm tội được thực hiện nhân danh PNTM là hành vi của một người hoặc một số người là người lao động hoặc người sử dụng lao động của PNTM hoặc chủ sở hữu của PNTM,… Những người này có thể là người giữ vị trí, chức vụ nhất định trong PNTM, là người đại diện theo pháp luật hoặc được PNTM ủy quyền thực hiện nhiệm vụ nhân danh PNTM.

Thứ hai, hành vi phạm tội được thực hiện vì lợi ích của PNTM. Đối với căn cứ này, cần xác định rõ giữa lợi ích pháp nhân và lợi ích cá nhân của chủ thể thực hiện hành vi do pháp nhân giao hoặc ủy quyền. Bởi vì trong quá trình thực hiện hành vi phạm tội, nếu xác định chủ thể phạm tội lợi dụng PNTM để thực hiện thêm hành vi vì lợi ích cá nhân thì pháp nhân không phải chịu trách nhiệm hình sự về hành vi này, những phần vượt quá sẽ thuộc trách nhiệm của chủ thể thực hiện.

Thứ ba, hành vi phạm tội được thực hiện có sự chỉ đạo, điều hành hoặc chấp thuận của PNTM. Những chủ thể có thẩm quyền chỉ đạo, điều hành và chấp thuận trong pháp nhân có thể là người đại diện theo pháp luật, chủ sở hữu, Hội đồng thành viên, Hội đồng quản trị.

Thứ tư, chưa hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự quy định tại Điều 27 BLHS. Thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự là thời hạn do BLHS quy định mà khi hết thời hạn đó thì người phạm tội không bị truy cứu trách nhiệm hình sự. Pháp luật quy định 04 mốc thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự tương ứng với 04 loại tội phạm như sau:

  • 05 năm đối với tội phạm ít nghiêm trọng;
  • 10 năm đối với tội phạm nghiêm trọng;
  • 15 năm đối với tội phạm rất nghiêm trọng;
  • 20 năm đối với tội phạm đặc biệt nghiêm trọng.

3. Phạm vi chịu trách nhiệm hình sự của pháp nhân

Căn cứ Khoản 2 Điều 2 BLHS: “Chỉ PNTM nào phạm một tội đã được quy định tại Điều 76 của Bộ luật này mới phải chịu trách nhiệm hình sự”. Theo quy định tại Điều 76 BLHS, PNTM chỉ phải chịu trách nhiệm hình sự về 33 tội phạm thuộc 3 nhóm sau đây:

+ Nhóm các tội phạm xâm phạm trật tự quản lý kinh tế: Điều 188 (Tội buôn lậu); Điều 189 (Tội vận chuyển trái phép hàng hóa, tiền tệ qua biên giới); Điều 190 (Tội sản xuất, buôn bán hàng cấm); Điều 191 (Tội tàng trữ, vận chuyển hàng cấm); Điều 192 (Tội sản xuất, buôn bán hàng giả); Điều 193 (Tội sản xuất, buôn bán hàng giả là lương thực, thực phẩm, phụ gia thực phẩm); Điều 194 (Tội sản xuất, buôn bán hàng giả là thuốc chữa bệnh, thuốc phòng bệnh); Điều 195 (Tội sản xuất, buôn bán hàng giả là thức ăn dùng để chăn nuôi, phân bón, thuốc thú y, thuốc bảo vệ thực vật, giống cây trồng, giống vật nuôi); Điều 196 (Tội đầu cơ); Điều 200 (Tội trốn thuế); Điều 203 (Tội in, phát hành, mua bán trái phép hóa đơn, chứng từ thu nộp ngân sách nhà nước); Điều 209 (Tội cố ý công bố thông tin sai lệch hoặc che giấu thông tin trong hoạt động chứng khoán); Điều 210 (Tội sử dụng thông tin nội bộ để mua bán chứng khoán); Điều 211 (Tội thao túng thị trường chứng khoán); Điều 213 (Tội gian lận trong kinh doanh bảo hiểm); Điều 216 (Tội trốn đóng bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp cho người lao động); Điều 217 (Tội vi phạm quy định về cạnh tranh; Tội vi phạm quy định về kinh doanh theo phương thức đa cấp); Điều 225 (Tội xâm phạm quyền tác giả, quyền liên quan); Điều 226 (Tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp); Điều 227 (Tội vi phạm quy định về nghiên cứu, thăm dò, khai thác tài nguyên); Điều 232 (Tội vi phạm quy định về khai thác, bảo vệ rừng và lâm sản); Điều 234 (Tội vi phạm quy định về bảo vệ động vật hoang dã).

+ Nhóm các tội phạm về môi trường: Điều 235 (Tội gây ô nhiễm môi trường); Điều 237 (Tội vi phạm quy định về phòng ngừa, ứng phó, khắc phục sự cố môi trường); Điều 238 (Tội vi phạm quy định về bảo vệ an toàn công trình thủy lợi, đê điều và phòng, chống thiên tai; vi phạm quy định về bảo vệ bờ, bãi sông); Điều 239 (Tội đưa chất thải vào lãnh thổ Việt Nam); Điều 242 (Tội huỷ hoại nguồn lợi thuỷ sản); Điều 243 (Tội huỷ hoại rừng); Điều 244 (Tội vi phạm quy định về bảo vệ động vật nguy cấp, quý, hiếm); Điều 245 (Tội vi phạm quy định về quản lý khu bảo tồn thiên nhiên); Điều 246 (Tội nhập khẩu, phát tán các loài ngoại lai xâm hại).

+ Nhóm tội phạm xâm phạm trật tự công cộng: Điều 300 (Tội tài trợ khủng bố); Điều 324 (Tội rửa tiền).

4. Chế tài đối với pháp nhân thương mại phạm tội

Theo Điều 33 BLHS, PNTN khi phạm tội chỉ bị áp dụng một hình phạt chính và có thể bị áp dụng một hoặc một số hình phạt bổ sung.

  • Hình phạt chính bao gồm: a) Phạt tiền; b) Đình chỉ hoạt động có thời hạn; c) Đình chỉ hoạt động vĩnh viễn.
  • Hình phạt bổ sung bao gồm: a) Cấm kinh doanh, cấm hoạt động trong một số lĩnh vực nhất định; b) Cấm huy động vốn; c) Phạt tiền, khi không áp dụng là hình phạt chính.

Theo Điều 46, Điều 82 BLHS, PNTM có thể bị áp dụng một hoặc các biện pháp tư pháp sau: a) Tịch thu vật, tiền trực tiếp liên quan đến tội phạm; b) Trả lại tài sản, sửa chữa hoặc bồi thường thiệt hại; buộc công khai xin lỗi; c) Khôi phục lại tình trạng ban đầu đã bị thay đổi do hành vi phạm tội của PNTM gây ra; d) Thực hiện một số biện pháp nhằm khắc phục, ngăn chặn hậu quả tiếp tục xảy ra.

Trên đây là bài viết “Pháp nhân phải chịu trách nhiệm hình sự không?”. Chúng tôi hi vọng pháp nhân thương mại nói chung, doanh nghiệp nói riêng sẽ thu được những giá trị nhất định khi theo dõi bài viết.

 

Elon musk sa thải nhân viên twitter và quy định của đạo luật WARN

Ngày 27/10/2022, Elon Musk – CEO của Công ty Tesla và Space X đã mua lại mạng xã hội Twitter với giá trị 44 tỷ Đô la Mỹ. Ngay sau khi trở thành ông chủ của Twitter, Elon Musk đã tiến hành sa thải 3500 nhân viên, và dự định sa thải tiếp 75% nhân viên còn lại của Twitter. Hành động của ông chủ Tesla liệu có trái với pháp luật của Hoa Kỳ, cũng như quy định của đạo luật WARN hay không? Hãy tìm hiểu cùng TNPT.

1. WARN là gì

WARN là viết tắt của cụm từ Worker Adjustment and Retraining Notification Act. Đây là một đạo luật liên bang của Hoa kỳ ra đời từ năm 1998 với mục đích yêu cầu người sử dụng lao động phải thông báo trước cho người lao động về việc đóng cửa hoặc sa thải nhân viên nhằm mục đích bảo về quyền và lợi ích hợp pháp của người lao động trước nguy cơ mất việc làm.

Do WARN là một đạo luật liên bang, do đó các bang khác nhau của Hoa Kỳ có thể ban hành các đạo luật WARN của bang để phù hợp với pháp luật của từng bang. Đối với vụ việc của Twitter, vì California là bang đặt trụ sở chính của Twitter nên đạo luật WARN của bang California có thể sẽ được áp dụng (“California WARN”)

2. Quy định của California WARN

California WARN quy định rằng người sử dụng lao động phải thông báo trước 60 ngày bằng văn bản cho người lao động trước khi tiến hành các biện pháp cắt giảm từ 100 người lao động trở lên. Hành động sa thải hàng loạt được định nghĩa là sa thải số lượng nhân viên bằng ít nhất 33% tổng lực lượng lao động mà người sử dụng lao động sở hữu. Nếu vi phạm quy định này, Twitter sẽ phải đối mặt với điều khoản phạt 500 đô la Mỹ với mỗi ngày vi phạm.

Đối với trường hợp này, nếu Elon Musk thực sự tiến hành sa thải 3500 nhân viên ngay trong tháng 10/2022 thì có thể vi phạm quy định của California WARN.

Tuy nhiên, có nhiều lý do để chúng ta tin rằng Elon Musk đã chuẩn bị kỹ lưỡng cho tình huống này, vì đây không phải lần đầu tiên ông chủ Tesla vướng vào những cáo buộc liên quan đến việc sa thải lao động.

3. Lý do Elon Musk có thể không vi phạm California WARN

Một trong những quy định cơ bản của California WARN là việc nếu một doanh nghiệp chấm dứt hợp đồng với 50 người lao động trở lên trong một ngày thì doanh nghiệp đó phải thông báo trước tối thiểu 60 ngày hoặc trả lương cho người lao động trong 60 ngày.

Như vậy, trong trường hợp Elon Musk đã thông báo với 3500 nhân viên về việc họ bị sa thải nhưng sau đó vẫn tiếp tục trả lương cho họ đủ 60 ngày công thì sẽ không bị coi là hành vi vi phạm WARN. Hoặc một trường hợp khác, khi 3500 nhân viên nhận được thông báo sa thải, nhưng 60 ngày sau các nhân viên đó vẫn chưa bị sa thải và tiếp tục làm việc và hưởng lương tại Twitter, thì sau đó Twitter nghiễm nhiên có quyền đột ngột sa thải các nhân viên này vì họ đã thực hiện đúng nghĩa vụ thông báo trước đó tổi thiểu 60 ngày.

Như vậy, việc Elon Musk sa thải các nhân viên Twitter nếu dựa trên đúng các nguyên tắc theo quy định của pháp luật Hoa Kỳ thì về lý thuyết, Elon Musk có thể sa thải bất cứ nhân viên nào ông muốn, miễn là việc sa thải đó tuân thủ các quy định của pháp luật và không trái với California WARN.

Lời nói và hành động của Elon Musk thường không đi đôi với nhau, điều này đã được thể hiện rõ ràng ở cách Elon Musk mua lại Twitter khi vị tỉ phú này nhiều lần từ bỏ thỏa thuận nhưng cuối cùng đã quyết định mua lại trang mạng xã hội lớn thứ 2 thế giới. Do đó, việc phát ngôn của Elon Musk về việc sa thải hàng loạt các nhân viên Twitter đang gây xôn xao dư luận tại Hoa Kỳ nếu không đi kèm với những hành động vi phạm cũng sẽ không gây bất cứ thiệt hại nào đến nhân viên tại Twitter và tất nhiên sẽ không vi phạm các quy định của California WARN.

Phía sau từng hành động tưởng chừng như bất thường Elon Musk chắc chắn đã được đảm bảo bởi đội ngũ pháp chế và luật sư của ông, và có thể mọi hành động bất thường cũng sẽ có những lý do nhất định để mang lại lợi ích cho vị tỷ phú này.

Ngoài ra, không thể không đề cập về việc quan hệ lao động trên tinh thần tự nguyện (“At-will) được áp dụng khắp lãnh thổ Hoa Kỳ (ngoại trừ bang Montana). Theo đó, người sử dụng lao động tại Hoa Kỳ có quyền chấm dứt hợp đồng với nhân viên bất cứ lúc nào vì bất kỳ lý do gì, (ngoại trừ các lý do pháp luật cấm hoặc không có lý do) mà không phải chịu trách nhiệm pháp lý. Tương tự, người lao động cũng được tự do chấm dứt mối quan hệ lao động với người sử dụng lao động bất cứ lúc nào, vì bất kỳ lý do gì hoặc thậm chí không vì lý do gì mà không phải chịu bất cứ hậu quả pháp lý nào.

Do đó, chúng tôi cho rằng Elon Musk và những nhân viên làm việc cho ông ta đều có quyền và nghĩa vụ bình đẳng với nhau theo quy định của pháp luật Hoa Kỳ. Tuy nhiên, những tuyên bố sa thải nhân viên của của Elon Musk đơn giản là gây được sự chú ý của dư luận hơn so với những tuyên bố nghỉ việc của nhân viên Twitter. Chúng tôi sẽ phân tích rõ hơn về quan hệ lao động trên tinh thần tự nguyện (“At-will) của pháp luật Hoa Kỳ vào một bài viết khác.

Trên đây là bài viết của TNTP phân tích về việc Elon Musk sa thải nhân viên của Twitter và quy định của đạo luật WARN, hi vọng bài viết có ích với các độc giả.

Trân trọng,

 

Thẩm quyền giải quyết tranh chấp của Tòa án khi doanh nghiệp khởi kiện yêu cầu thu hồi công nợ?

Khi tranh chấp Hợp đồng phát sinh, việc xác định thẩm quyền của Tòa án là bước quan trọng để doanh nghiệp tiến hành khởi kiện để yêu cầu thu hồi công nợ. Sau đây, TNTP sẽ phân tích Thẩm quyền giải quyết tranh chấp hợp của Tòa án được xác định theo bốn bước như sau:

1. Thẩm quyền theo vụ việc

Xác định thẩm quyền theo vụ việc là ta xác định vụ việc tranh chấp đó có thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án hay không. Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 quy định cụ thể thẩm quyền để giải quyết tranh chấp của Tòa án theo vụ việc từ Điều 26 đến Điều 34.

Cụ thể: Thẩm quyền để giải quyết Tranh chấp hợp đồng kinh doanh thương mại được xác định theo Điều 30 Bộ luật tố tụng dân sự.

2. Thẩm quyền theo cấp xét xử

Theo Luật tổ chức Tòa án nhân dân chia thẩm quyền giải quyết của Tòa án thành các cấp như sau:

  • Tòa án nhân dân tối cao;
  • Tòa án nhân dân cấp cao;
  • Tòa án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương (gọi chung là Tòa án nhân dân cấp tỉnh);
  • Tòa án nhân dân quận, huyện, thị xã, thành phố thuộc tỉnh (gọi chung là Tòa án nhân dân cấp huyện);
  • Tòa án quân sự.

Tòa án nhân dân cấp huyện có thẩm quyền giải quyết đối với các tranh chấp được quy định tại Điều 35, 36 Bộ luật tố tụng dân sự; Tòa án nhân dân cấp tỉnh có thẩm quyền giải quyết đối với các tranh chấp được quy định tại Điều 37, 38 Bộ luật Tố tụng dân sự. Tranh chấp về kinh doanh thương mại thuộc thẩm quyền của Tòa án nhân dân cấp huyện. Tranh chấp kinh doanh thương mại có yếu tố nước ngoài thì thẩm quyền thuộc Tòa án nhân dân cấp tỉnh. Tranh chấp giữa doanh nghiệp với doanh nghiệp có thể xảy ra trường hợp cả hai bên đều được thành lập và hoạt động tại Việt Nam hoặc một trong hai bên thành lập và hoạt động ngoài lãnh thổ Việt Nam, trong trường hợp đó:

Nếu tranh chấp giữa doanh nghiệp mà cả hai bên đều được thành lập và hoạt động tại Việt Nam thì thẩm quyền giải quyết là của Tòa án nhân dân cấp huyện;

Nếu tranh chấp giữa doanh nghiệp mà một trong hai bên thành lập và hoạt động ngoài lãnh thổ Việt Nam thì thẩm quyền giải quyết thuộc về Tòa án nhân dân cấp tỉnh.

3. Thẩm quyền theo lãnh thổ

Thẩm quyền giải quyết các tranh chấp hợp đồng của Tòa án theo lãnh thổ được xác định như sau:

Tòa án nơi bị đơn cư trú, làm việc, nếu bị đơn là cá nhân hoặc nơi bị đơn có trụ sở, nếu bị đơn là cơ quan, tổ chức có thẩm quyền giải quyết theo thủ tục sơ thẩm những tranh chấp hợp đồng thương mại quy định tại Điều 30 của Bộ luật tố tụng dân sự;

Các đương sự có quyền tự thỏa thuận với nhau bằng văn bản yêu cầu Tòa án nơi cư trú, làm việc của nguyên đơn, nếu nguyên đơn là cá nhân hoặc nơi có trụ sở của nguyên đơn, nếu nguyên đơn là cơ quan, tổ chức giải quyết những tranh chấp kinh doanh, thương mại quy định tại điều 30 của Bộ luật này;

Đối tượng tranh chấp là bất động sản thì chỉ Tòa án nơi có bất động sản có thẩm quyền giải quyết.

4. Thẩm quyền theo sự lựa chọn của nguyên đơn

Nguyên đơn có quyền lựa chọn Tòa án giải quyết tranh chấp hợp đồng kinh doanh, thương mại, trong các trường hợp được quy định tại khoản 1 Điều 40 Bộ luật tố tụng dân sự:

“a) Nếu không biết nơi cư trú, làm việc, trụ sở của bị đơn thì nguyên đơn có thể yêu cầu   Tòa án nơi bị đơn cư trú, làm việc, có trụ sở cuối cùng hoặc nơi bị đơn có tài sản giải     quyết;

b) Nếu tranh chấp phát sinh từ hoạt động của chi nhánh tổ chức thì nguyên đơn có thể yêu cầu Tòa án nơi tổ chức có trụ sở hoặc nơi tổ chức có chi nhánh giải quyết;

c) Nếu bị đơn không có nơi cư trú, làm việc, trụ sở ở Việt Nam hoặc vụ án về tranh chấp việc cấp dưỡng thì nguyên đơn có thể yêu cầu Tòa án nơi mình cư trú, làm việc, có trụ sở giải quyết;

g) Nếu tranh chấp phát sinh từ quan hệ hợp đồng thì nguyên đơn có thể yêu cầu Tòa án nơi hợp đồng được thực hiện giải quyết;

h) Nếu các bị đơn cư trú, làm việc, có trụ sở ở nhiều nơi khác nhau thì nguyên đơn có thể yêu cầu Tòa án nơi một trong các bị đơn cư trú, làm việc, có trụ sở giải quyết;

i) Nếu tranh chấp bất động sản mà bất động sản có ở nhiều địa phương khác nhau thì nguyên đơn có thể yêu cầu Tòa án nơi có một trong các bất động sản giải quyết”.

Sau khi xác định đúng thẩm quyền giải quyết của Tòa án thì Tòa án có thẩm quyền nhận đơn khởi kiện và xem xét đơn khởi kiện. Trường hợp đơn khởi kiện hợp lệ thì Tòa án thông báo cho nguyên đơn về việc nộp lệ phí và tiền tạm ứng án phí. Sau khi nhận được biên lai phí và tiền tạm ứng án phí thì Tòa án thụ lý vụ án.

Theo đó, doanh nghiệp có thể căn cứ vào cơ quan giải quyết tranh chấp trong hợp đồng để có thể xác định được nơi tiến hành nộp Đơn khởi kiện để yêu cầu thu hồi công nợ hay giải quyết tranh chấp, tránh tình trạng mất thời gian để chuyển Đơn đến tòa án có thẩm quyền để giải quyết.

Như vậy, để đảm bảo tối đa quyền và lợi ích hợp pháp của mình được pháp luật bảo vệ, các Doanh nghiệp cần hết sức lưu ý để xác định thẩm quyền của Tòa án. Trên đây là những chia sẻ của TNTP về việc xác định thẩm quyền của Tòa án khi doanh nghiệp khởi kiện thu hồi nợ, mong rằng bài viết này có ích với các doanh nghiệp.

Trân trọng.

Hoạt động thu hồi nợ hợp pháp gồm những phương pháp nào?

Nhiều người chỉ biết đến những hoạt động thu hồi nợ bị cấm và cho rằng thu hồi nợ là bất hợp pháp. Tuy nhiên, vẫn có hoạt động thu hồi nợ hợp pháp được phép thực hiện. Vậy đó là những phương pháp thu hồi nợ nào? Cần lưu ý điều gì khi thực hiện những phương pháp đó? Hãy tìm hiểu cùng TNTP trong bài viết sau.

1. Liên hệ với bên nợ để đôn đốc, nhắc nhở bên nợ thanh toán khoản nợ

Hoạt động thu hồi nợ hợp pháp đầu tiên là liên hệ với bên nợ để đôn đốc, nhắc nhở bên nợ thanh toán khoản nợ. Hiện tại, các cách để liên hệ với bên nợ là:

Gặp mặt trực tiếp. Đây là một biện pháp truyền thống có những ưu điểm lớn hơn so với gọi điện và gửi văn bản. Gặp mặt trực tiếp có khả năng thương lượng thành công cao nhất trong các cách liên hệ. Ngoài ra, bên có quyền đánh giá được thiện chí của bên nợ đối với việc trả nợ nếu bên nợ đồng ý gặp mặt trực tiếp. Tuy nhiên, việc gặp mặt trực tiếp cũng có vài điểm bất lợi là khó sắp xếp thời gian hơn những cách liên hệ khác. Ngoài ra, không phải bên nợ nào cũng đồng ý gặp mặt bên thu hồi nợ.

Lưu ý: Để thu hồi nợ hợp pháp, khi gặp mặt, bên có quyền cần kiểm soát tốt cảm xúc, sử dụng ngôn từ thích hợp, không xúc phạm danh dự, nhân phẩm của bên nợ.

Gọi điện. Gọi điện cũng là một cách liên hệ linh động, giúp các bên trao đổi, tìm cách giải quyết mà không cần phải sắp xếp thời gian. Tuy nhiên, gọi điện sẽ chỉ có ích khi bên nợ có thiện chí và chủ động. Bên cạnh đó, gọi điện có một điểm bất lợi lớn là nội dung trao đổi thường không được coi là chứng cứ nếu khởi kiện tại cơ quan có thẩm quyền.

Lưu ý: Bên có quyền chỉ được gọi điện trong khoảng thời gian và số lần mà pháp luật cho phép. Cụ thể, bên có quyền được gọi điện đôn đốc, nhắc nhở bên nợ tối đa 5 lần/1 ngày và trong khoảng thời gian từ 7 giờ đến 21 giờ.

Gửi văn bản, thư yêu cầu thanh toán, xác nhận công nợ qua thư điện tử hoặc bưu điện. Cách thu hồi nợ này rất phổ biến nếu bên nợ là công ty, doanh nghiệp. Việc gửi văn bản, thư yêu cầu thanh toán có một lợi ích lớn là có thể trở thành chứng cứ nếu có hiệu lực pháp lý và được cơ quan có thẩm quyền công nhận. Với bên nợ là doanh nghiệp, tỷ lệ khởi kiện cao hơn các khoản nợ cá nhân, bên có quyền nên chú ý điều này và gửi văn bản cho bên nợ một cách thường xuyên.

Lưu ý: Các văn bản, bản scan cần có chữ ký, đóng dấu và lưu lại các chứng cứ chứng minh bên có quyền đã gửi văn bản (Ví dụ: biên lai, thư báo phát của bưu điện, màn hình gửi thư điện tử, …) Bằng cách này, các văn bản sẽ có hiệu lực pháp lý và có thể được coi là chứng cứ nếu sau này bên có quyền khởi kiện bên nợ.

2. Khởi kiện vụ án dân sự

Trong trường hợp đã đôn đốc, nhắc nhở mà bên nợ vẫn không thanh toán khoản nợ, bên có quyền có thể khởi kiện vụ án dân sự. Đây là một hành vi thu hồi nợ hợp pháp để bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của bên có quyền.

Nếu muốn khởi kiện vụ án dân sự, bên có quyền nên xác định và làm rõ một vài điều sau đây:

  • Bên nợ có khả năng thanh toán khoản nợ không? Bên nợ phải có tiền, tài sản thì mới có khả năng thanh toán khoản nợ. Nếu bên nợ không còn khả năng thanh toán, dù bên có quyền khởi kiện thì cũng không thể thu hồi được nợ.
  • Khoản nợ có đủ lớn để khởi kiện vụ án dân sự không? Khi đã khởi kiện, bên có quyền phải xác định sẽ bỏ ra một khoản chi phí để thu hồi khoản nợ. Đó có thể là chi phí thuê luật sư; chi phí cho việc chuẩn bị các tài liệu, hồ sơ khởi kiện; các loại phí để thu thập chứng cứ trong suốt quá trình tranh tụng; án phí, phí thi hành án (nếu có).

Để bên có quyền hưởng lợi thì khoản nợ phải lớn hơn toàn bộ chi phí bỏ ra một cách tương đối. Với những khoản nợ nhỏ dưới 100.000.000 đồng, bên có quyền có khả năng sẽ mất đến ⅓, thậm chí một nửa để tranh tụng. Thời gian cho một vụ án dân sự từ khi nộp đơn khởi kiện cho đến khi bên nợ trả hết khoản nợ kéo dài từ 6 tháng đến vài năm. Như vậy, khoản tiền mà bên có quyền nhận về sau khi trừ đi mọi chi phí sẽ không mang lại nhiều lợi ích.

3. Tố giác tội phạm

Ở một vài vụ việc đặc biệt, bên nợ cắt đứt mọi liên lạc, trốn khỏi nơi cư trú và có dấu hiệu lừa dối, lạm dụng tín nhiệm để chiếm đoạt tài sản, bên có quyền có thể cân nhắc việc tố giác tội phạm. Đây là hoạt động thu hồi nợ hợp pháp để bảo vệ quyền lợi của bên có quyền.

Thông thường, hai tội phổ biến nhất liên quan đến các khoản nợ là tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản và Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản. Trong đó, tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản được quy định tại Điều 174 Bộ luật Hình sự 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017). Tội Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản được quy định tại Điều 175 Bộ luật Hình sự 2015. Hai tội này thường bị nhầm lẫn với nhau. Do đó, bên có quyền nên phân biệt rõ để tránh bị cơ quan có thẩm quyền từ chối giải quyết vì tố giác không đúng tội phạm.

Trên đây là những biện pháp thu hồi nợ hợp pháp cho đến hiện tại. Nếu bạn đang muốn thu hồi khoản nợ quá hạn, bạn có thể áp dụng trong vụ việc của mình. TNTP hy vọng bài viết có ích với bạn.

Các tranh chấp lao động cá nhân khởi kiện không cần thông qua thủ tục hòa giải

Thông thường, các tranh chấp lao động cá nhân phải được giải quyết thông qua thủ tục hòa giải của hòa giải viên lao động trước khi yêu cầu Hội đồng trọng tài lao động hoặc Tòa án giải quyết. Tuy nhiên, trong một số trường hợp khi xảy ra tranh chấp lao động cá nhân (“TCLĐ”), các bên có thể khởi kiện không cần thông qua thủ tục hòa giải tại Tòa án. Vậy, đó là các trường hợp nào? Hãy cùng TNTP tìm hiểu qua bài viết dưới đây.

I. Các tranh chấp lao động cá nhân khởi kiện không cần thông qua thủ tục hòa giải

Khoản 1 Điều 188 Bộ luật Lao động 2019 đã chỉ rõ các trường hợp TCLĐ giữa người lao động và người sử dụng lao động được áp dụng việc khởi kiện không cần thông qua thủ tục hòa giải. Theo đó, các tranh chấp đó bao gồm:

  • Về xử lý kỷ luật lao động theo hình thức sa thải hoặc về trường hợp bị đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động;
  • Về bồi thường thiệt hại, trợ cấp khi chấm dứt hợp đồng lao động;
  • Giữa người giúp việc gia đình với người sử dụng lao động;
  • Về bảo hiểm xã hội theo quy định của pháp luật về bảo hiểm xã hội, về bảo hiểm y tế theo quy định của pháp luật về bảo hiểm y tế, về bảo hiểm thất nghiệp theo quy định của pháp luật về việc làm, về bảo hiểm tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp theo quy định của pháp luật về an toàn, vệ sinh lao động;
  • Về bồi thường thiệt hại giữa người lao động với doanh nghiệp, tổ chức đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng;
  • Giữa người lao động thuê lại với người sử dụng lao động thuê lại.

Ngược lại, nếu không thuộc các trường hợp nêu trên thì các tranh chấp đó đều phải được giải quyết thông qua thủ tục hòa giải của hòa giải viên lao động theo đúng trình tự, thủ tục tại Điều 188 Bộ luật Lao động năm 2019 trước khi yêu cầu Hội đồng trọng tài lao động hoặc Tòa án giải quyết.

II. Thẩm quyền của Tòa án giải quyết tranh chấp lao động cá nhân

Các bên cần xác định đúng thẩm quyền tòa án giải quyết TCLĐ theo các nguyên tắc của Bộ Luật Tố tụng Dân sự 2015 (“BLTTDS 2015”). Việc xác định đúng tòa án có thẩm quyền giúp cho việc thụ lý giải quyết vụ án diễn ra nhanh chóng, từ đó bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bên bị xâm phạm đạt hiệu quả tối đa.

Bước một, xác định thẩm quyền Tòa án theo cấp được quy định tại Điều 35 và Điều 37 BLTTDS 2015, cụ thể:

  • Tòa án nhân dân cấp huyện có thẩm quyền giải quyết theo thủ tục sơ thẩm các TCLĐ quy định tại Điều 32 BLTTDS 2015.
  • Tòa án cấp tỉnh sẽ có thẩm quyền giải quyết TCLĐ có đương sự hoặc tài sản ở nước ngoài hoặc cần phải ủy thác tư pháp.

Bước hai, xác định định thẩm quyền Tòa án theo lãnh thổ quy định tại Điều 39 BLTTDS 2015, cụ thể:

  • Tòa án nơi bị đơn cư trú, trụ sở của bị đơn.
  • Các đương sự có quyền tự thỏa thuận với nhau bằng văn bản yêu cầu Tòa án nơi cư trú, làm việc của nguyên đơn giải quyết TCLĐ.

Trường hợp xác định theo sự lựa chọn của nguyên đơn được quy định tại Điều 40 BLTTDS 2015 như sau:

  • Nếu không biết nơi cư trú, làm việc, trụ sở của bị đơn thì nguyên đơn có thể yêu cầu Tòa án nơi bị đơn cư trú, làm việc, có trụ sở cuối cùng hoặc nơi bị đơn có tài sản giải quyết.
  • Tranh chấp về bồi thường thiệt hại, trợ cấp khi chấm dứt hợp đồng lao động, bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp, quyền và lợi ích liên quan đến việc làm, tiền lương, thu nhập và các điều kiện lao động khác đối với người lao động thì nguyên đơn là người lao động có thể yêu cầu Tòa án nơi mình cư trú, làm việc giải quyết.
  • Tranh chấp phát sinh từ việc sử dụng lao động của người cai thầu hoặc người có vai trò trung gian thì nguyên đơn có thể yêu cầu Tòa án nơi người sử dụng lao động là chủ chính cư trú, làm việc, có trụ sở hoặc nơi người cai thầu, người có vai trò trung gian cư trú, làm việc giải quyết.
  • Trường hợp bị đơn cư trú, làm việc, có trụ sở ở nhiều nơi khác nhau thì nguyên đơn có thể yêu cầu Tòa án nơi một trong các bị đơn cư trú, làm việc, có trụ sở giải quyết.

Kết hợp kết quả của hai bước trên ta có thể xác định được Tòa án có thẩm quyền giải quyết TCLĐ và tiến hành khởi kiện tranh chấp lao động.

III. Dịch vụ pháp lý của TNTP khi tham gia giải quyết các tranh chấp lao động 

Các dịch vụ pháp lý TNTP thực hiện khi tham gia giải quyết các vụ án TCLĐ, bao gồm:

  • Tư vấn quyền và nghĩa vụ của các bên tranh chấp;
  • Tư vấn các phương án để giải quyết tranh chấp (có thể thương lượng, hòa giải hoặc khởi kiện tại tòa án);
  • Hướng dẫn khách hàng thu thập chứng cứ;
  • Tham gia đàm phán, hòa giải trong vụ án về tranh chấp lao động;
  • Tư vấn căn cứ, trình tự, thủ tục khởi kiện tại Tòa án;
  • Soạn thảo hồ sơ khởi kiện và các văn bản, tài liệu khác nhằm phục vụ giải quyết vụ án
  • Tham gia phiên tòa (sơ thẩm, phúc thẩm) với tư cách là luật sư bảo vệ quyền và lợi hợp pháp của khách hàng;
  • Luật sư đại diện bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của khách hàng trong giai đoạn thi hành án.

Trên đây là nội dung bài viết “Các tranh chấp lao động cá nhân khởi kiện không cần thông qua thủ tục hòa giải”. Nếu bạn cần được hỗ trợ cá vấn đề pháp lý về TCLĐ, vui lòng liên hệ với TNTP để được hỗ trợ kịp thời.

Trân trọng.

Các căn cứ xác lập quyền dân sự theo Bộ luật Dân sự 2015

Các chủ thể có năng lực pháp luật dân sự khác nhau thì có các quyền dân sự khác nhau. Khi tham gia vào quan hệ pháp luật, các chủ thể có quyền tự mình thực hiện những hành vi nhất định, quyền yêu cầu người có nghĩa vụ thực hiện nghĩa vụ, quyền yêu cầu cơ quan nhà nước có thẩm quyền bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình khi bị xâm phạm về quyền. Vậy quyền dân sự được xác lập dựa trên các căn cứ nào? Trong bài viết này, chúng tôi sẽ phân tích 09 căn cứ về xác lập quyền dân sự theo Điều 8 Bộ luật Dân sự 2015.

1. Hợp đồng

Quyền dân sự được xác lập thông qua hợp đồng, được thể hiện cụ thể thành các điều khoản trong hợp đồng và được bảo đảm bởi nghĩa vụ đối ứng của bên còn lại. Khi có sự kiện một bên thực hiện nghĩa vụ thì bên kia sẽ được xác lập quyền và ngược lại. Ví dụ, đối với hợp đồng mua bán, khi bên mua đã thanh toán đầy đủ tiền cho bên bán, bên mua có quyền được nhận tài sản và có quyền sở hữu tài sản đúng với số lượng, chất lượng mà hai bên đã thỏa thuận.

2. Hành vi pháp lý đơn phương

Hành vi pháp lý đơn phương là hoạt động thể hiện ý chí của một bên nhằm phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự mà không phụ thuộc vào ý chí của bên còn lại. Người có hành vi pháp lý đơn phương phải là người có quyền nhất định, và người này thực hiện hành vi với mục đích trao cho người khác quyền của mình. Hành vi pháp lý đơn phương là căn cứ xác lập quyền dân sự trong quan hệ hứa thưởng (Điều 570 BLDS 2015), thi có giải (Điều 573 BLDS 2015), di chúc (Điều 624 BLDS 2015). Tuy nhiên, hành vi pháp lý đơn phương chỉ làm phát sinh quyền dân sự khi ý chí thể hiện không trái pháp luật và đạo đức xã hội.

3. Quyết định của Tòa án, cơ quan có thẩm quyền khác theo quy định của luật

Đây là căn cứ xác lập quyền dân sự khá đặc trưng, bởi quyết định của Tòa án, cơ quan có thẩm quyền khác là kết quả của quá trình giải quyết tranh chấp, yêu cầu của đương sự,… có tính bắt buộc với các bên và được Nhà nước bảo đảm thực hiện.

Ví dụ: Tòa án ra bản án, theo đó buộc A phải trả cho B 500 triệu đồng, bản án là căn cứ để xác lập quyền sở hữu của B đối với 500 triệu đồng mà A phải trả. Trường hợp A không tự nguyện trả, B có quyền yêu cầu cơ quan thi hành án dân sự thực hiện thi hành án.

4. Kết quả của lao động, sản xuất, kinh doanh; kết quả của hoạt động sáng tạo ra đối tượng quyền sở hữu trí tuệ

Căn cứ xác lập trên chủ yếu là xác lập quyền của chính chủ sở hữu đối với tài sản mình làm ra, đó là các quyền được pháp luật ghi nhận về chiếm hữu, sử dụng, định đoạt. Đây là căn cứ xác lập quyền dân sự điển hình và ít khả năng tranh chấp (trừ quyền sở hữu trí tuệ).

5. Chiếm hữu tài sản

Chiếm hữu tài sản là việc chủ thể nắm giữ, chi phối tài sản một cách trực tiếp hoặc gián tiếp như chủ thể có quyền đối với tài sản. Quyền dân sự chỉ được xác lập trong trường hợp chiếm hữu hợp pháp, đối với chiếm hữu không có căn cứ pháp luật hoặc chiếm hữu bất hợp pháp thì cá nhân chiếm hữu phải thực hiện nghĩa vụ thay vì có quyền. Thông thường, người chiếm hữu tài sản có căn cứ pháp luật sẽ được hưởng các quyền từ tài sản mang lại, như quyền được sử dụng, khai thác để sản sinh hoa lợi, lợi tức.

6. Sử dụng tài sản, được lợi về tài sản không có căn cứ pháp luật

Tại Điều 236 Bộ luật Dân sự 2015, người chiếm hữu, người được lợi về tài sản không có căn cứ pháp luật nhưng ngay tình, liên tục, công khai trong thời hạn 10 năm đối với động sản, 30 năm đối với bất động sản thì trở thành chủ sở hữu tài sản đó, kể từ thời điểm bắt đầu chiếm hữu, trừ trường hợp pháp luật quy định khác. Vì vậy, nếu chủ thể đáp ứng điều kiện trên thì việc sử dụng tài sản, được lợi về tài sản không có căn cứ pháp luật cũng được coi là một trường hợp xác lập quyền dân sự.

7. Bị thiệt hại do hành vi trái pháp luật

Khi chủ thể thực hiện hành vi trái pháp luật xâm phạm đến tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, uy tín, tài sản của người khác thì chủ thể gây thiệt hại có nghĩa vụ phải bồi thường thiệt hại do mình gây ra cho bên bị gây thiệt hại. Tuy nhiên, để yêu cầu bên gây thiệt hại bồi thường, bên bị gây thiệt hại có nghĩa vụ chứng minh về hành vi vi phạm của bên kia và thiệt hại mà mình phải chịu. Lúc này, bên bị gây thiệt hại có quyền được nhận bồi thường, xác lập quyền sở hữu đối với tài sản bồi thường từ bên gây thiệt hại.

8. Thực hiện công việc không có ủy quyền

Theo quy định tại Điều 574 Bộ luật Dân sự 2015, thực hiện công việc không có ủy quyền là việc một người không có nghĩa vụ nhưng đã tự nguyện thực hiện công việc vì lợi ích của người có công việc được thực hiện khi người này không biết hoặc biết mà không phản đối. Vì vậy, người thực hiện công việc được thanh toán các chi phí hợp lí mà mình đã bỏ ra để thực hiện công việc.

9. Căn cứ khác do pháp luật quy định

Để đảm bảo không liệt kê thiếu căn cứ xác lập quyền dân sự, pháp luật dự trù và mở rộng thêm quy định tại Khoản 9: “Căn cứ khác do pháp luật quy định”.

Trên đây là bài viết “Các căn cứ xác lập quyền dân sự theo Bộ luật Dân sự 2015”. Chúng tôi hi vọng bài viết này có ích với các bạn.

Trân trọng,

Bình luận Án lệ số 11/2017/AL

Trong hoạt động kinh doanh, việc các doanh nghiệp, công ty vay vốn Ngân hàng không còn xa lạ. Đây là một phương án thích hợp cho doanh nghiệp để giải quyết các vấn đề tài chính tạm thời. Tuy nhiên, các khoản vay vốn ở Ngân hàng phần lớn đều yêu cầu phải có tài sản đảm bảo. Trong trường hợp tài sản bảo đảm là tài sản thuộc quyền sở hữu của bên bảo đảm thì việc xử lý tài sản sẽ đơn giản hơn. Nhưng trong trường hợp một phần hoặc toàn bộ tài sản bảo đảm không thuộc quyền sở hữu của bên bảo đảm thì việc xử lý tài sản sẽ được giải quyết như thế nào? Quan điểm của Tòa án về vấn đề này được thể hiện tại Án lệ số 11/2017/AL (Được Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao thông qua ngày 14 tháng 12 năm 2017 và được công bố theo Quyết định số 299/QĐ-CA ngày 28 tháng 12 năm 2017 của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao)

Tóm tắt Án lệ số 11/2017

1. Ngày 16/06/2008, Ngân hàng Thương mại Cổ phần A (“Ngân hàng A”) và Công ty TNHH B (“Công ty B”) ký Hợp đồng tín dụng số 1702-LAV-200800142. Theo đó, Ngân hàng A cho Công ty B vay 10.000.000.000 đồng. Ngân hàng A đã giải ngân 3.066.191.933 đồng cho Công ty B.

Tài sản bảo đảm cho khoản vay trên là nhà, đất tại số 432, tổ 28, phường E, quận G, Thành phố Hà Nội thuộc quyền sở hữu và sử dụng của ông Trần Duyên H (“Ông H”) và bà Lưu Thị Minh N (“Bà N”) theo Hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất ngày 11/06/2008. Hợp đồng này được Phòng công chứng số 6 thành phố Hà Nội công chứng ngày 11/06/2008 và Sở Tài nguyên và Môi trường Thành phố Hà Nội chứng nhận đăng ký giao dịch bảo đảm ngày 11/06/2008.

Tính đến ngày 05/10/2011, Công ty B còn nợ gốc và lãi là 4.368.570.503 đồng.

2. Ngày 30/10/2009, Ngân hàng A và Công ty B ký Hợp đồng tín dụng số 1702-LAV-200900583. Theo đó, Ngân hàng A cho Công ty B vay 180.000 USD. Ngân hàng A đã giải ngân đủ 180.000 USD.

Tài sản bảo đảm cho khoản vay trên là lô hàng 19 xe ô tô tải thành phẩm trọng tải 1,75 tấn hiệu JMP mới 100% trị giá 2.778.750.000 đồng của Công ty B theo Hợp đồng thế chấp số 219/2009/EIBHBT-CC ngày 29/10/2009 (“Hợp đồng số 219”). Hợp đồng thế chấp này được đăng ký giao dịch bảo đảm tại Cục đăng ký giao dịch bảo đảm thành phố Hà Nội ngày 02/11/2009.

Tính đến phiên tòa sơ thẩm, Ngân hàng A xác nhận Công ty B đã trả xong nợ gốc, còn lại nợ lãi là 5.392,81 USD; tài sản bảo đảm là 19 xe ô tô hiện đã bán 18 chiếc, chỉ còn lại 01 chiếc.

3. Do Công ty B không trả hết các khoản nợ gốc và lãi, Ngân hàng A đã khởi kiện Công ty B và yêu cầu Tòa án:

– Buộc Công ty B thanh toán số nợ gốc và lãi của Hợp đồng tín dụng số 1702-LAV-200800142 là 4.368.570.503 đồng;

– Buộc Công ty B thanh toán 5.392,81 USD nợ lãi của Hợp đồng tín dụng số 1702-LAV-200900583.

Trong trường hợp công ty B không thanh toán hoặc thanh toán không đủ, Ngân hàng A đề nghị phát mãi tài sản thế chấp là:

– Quyền sở hữu nhà và quyền sử dụng đất ở tại số 432, tổ 28, phường E, quận G, thành phố Hà Nội thuộc quyền sở hữu và sử dụng của ông H và bà N (“Nhà đất số 432”);

– 01 xe ô tô tải thành phẩm theo Hợp đồng thế chấp tài sản số 219/2009/EIBHBT-CC.

4. Tại phiên tòa sơ thẩm, các bên có ý kiến như sau:

– Bị đơn là Công ty B thừa nhận số tiền nợ gốc, lãi và tài sản thế chấp nhưng đề nghị Ngân hàng cho trả nợ dần.

– Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là Ông H và bà N thừa nhận ký Hợp đồng thế chấp nhà, đất số 432 để đảm bảo cho khoản vay tối đa là 3.000.000.000 đồng của Công ty B. Ông H và bà N đề nghị Ngân hàng gia hạn khoản nợ của Công ty B để thu xếp trả nợ cho Ngân hàng.

– Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là Anh Trần Lưu H2 (“Anh H2”) thay mặt cho những người con, cháu của ông H và bà N đang sống tại nhà, đất số 432 trình bày cuối năm 2010, anh mới biết bố mẹ anh (ông H và bà N) thế chấp nhà đất của gia đình đang ở để bảo đảm cho khoản vay của Công ty B. Trên phần đất mà ông H và bà N thế chấp có một ngôi nhà 3,5 tầng mà anh H2 và anh Trần Minh H đã bỏ tiền xây dựng năm 2000, hiện đang có 16 người đang ở. Khi ký hợp đồng thế chấp, Ngân hàng không hỏi ý kiến các anh và những người đang sinh sống tại nhà, đất này. Vì vậy, anh H2 đề nghị Tòa án không công nhận hợp đồng thế chấp.

5. Tại Bản án kinh doanh, thương mại sơ thẩm số 59/2013/KDTM-ST ngày 24/9/2013 (“Bản án sơ thẩm”), Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội (“Tòa án HN”) quyết định:

– Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Ngân hàng A:

  • Buộc Công ty B thanh toán cho Ngân hàng A số tiền còn nợ của Hợp đồng tín dụng số 1702-LAV-200800142 gồm nợ gốc, nợ lãi trong hạn, nợ lãi quá hạn, tiền lãi phạt chậm trả với tổng số tiền là 6.054.407.123 đồng
  • Buộc Công ty B thanh toán cho Ngân hàng A số tiền còn nợ của Hợp đồng tín dụng số 1702-LAV-200900583 là 5.392,81 USD.

– Trong trường hợp Công ty B không trả nợ hoặc trả không đủ số tiền còn nợ của Hợp đồng tín dụng số 1702-LAV-200800142 thì Ngân hàng A có quyền yêu cầu Cục Thi hành án dân sự (THADS) thành phố Hà Nội xử lý tài sản bảo đảm là Nhà đất số 432 và tài sản là 01 chiếc xe ô tô tải, trọng tải 1,75 tấn hiệu JMP do Công ty B lắp ráp theo Hợp đồng số 219.

6. Sau khi xét xử sơ thẩm, bị đơn và những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đều có đơn kháng cáo bản án sơ thẩm.

7.Tại Bản án kinh doanh, thương mại phúc thẩm số 111/2014/KDTM-PT ngày 07/7/2014 (“Bản án phúc thẩm”), Tòa án nhân dân tối cao tại Hà Nội (“Tòa án tối cao”) quyết định:

– Giữ nguyên quyết định của Bản án sơ thẩm về các khoản tiền vay và tiền Công ty B phải trả Ngân hàng A;

– Hủy phần quyết định về hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất của người thứ 3;

– Giao hồ sơ vụ án về Tòa án HN để xác định phần tài sản hợp pháp thuộc sở hữu của ông H, bà N làm tài sản thế chấp bảo đảm cho Công ty B.

8.Sau khi xét xử phúc thẩm, Ngân hàng A, Tòa án HN có văn bản đề nghị xem xét lại bản án phúc thẩm theo thủ tục giám đốc thẩm.

9.Tại Kháng nghị giám đốc thẩm, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao kháng nghị Bản án kinh doanh, thương mại phúc thẩm số của Tòa Phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại Hà Nội. Đề nghị Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hủy Bản án kinh doanh, thương mại phúc thẩm của Tòa Phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại Hà Nội và Bản án kinh doanh, thương mại sơ thẩm của Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội; giao hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội xét xử sơ thẩm lại theo đúng quy định của pháp luật.

Nhận xét Án lệ số 11/2017

Dựa trên phần tóm tắt Án lệ số 11/2017, TNTP có một vài ý kiến nhận xét như sau:

Điều kiện để hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất

Khi thế chấp quyền sử dụng đất và/hoặc tài sản gắn liền với đất có 03 trường hợp sau: (i) Thế chấp cả quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất; (ii) Thế chấp quyền sử dụng đất nhưng không thế chấp tài sản gắn liền với đất; (iii) Thế chấp tài sản gắn liền với đất nhưng không thế chấp quyền sử dụng đất.

Thế chấp cả quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất

Trường hợp bên thế chấp bảo đảm tài sản là cả quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất thì ngoài các điều kiện để giao dịch có hiệu lực quy định tại Điều 117 Bộ luật dân sự 2015, chỉ cần quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất đều thuộc quyền sở hữu của bên thế chấp thì hợp đồng thế chấp tài sản sẽ có hiệu lực pháp luật.

Trên đây là bài bình luận Án lệ số 11/2017/AL của TNTP. Hy vọng rằng bài viết này hữu ích với để giúp doanh nghiệp hạn chế các rủi ro trong việc soạn thảo và giải quyết tranh chấp Hợp đồng.

Trân trọng.

 

Công ty Luật TNHH Quốc Tế TNTP và Các Cộng Sự

  • Văn phòng tại Hồ Chí Minh:
    Phòng 1901, Tầng 19 Tòa nhà Saigon Trade Center, 37 Tôn Đức Thắng, Phường Bến Nghé, Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh
  • Văn phòng tại Hà Nội:
    Số 2, Ngõ 308 Tây Sơn, Phường Thịnh Quang, Quận Đống Đa, Hà Nội
  • Email: ha.nguyen@tntplaw.com


    Bản quyền thuộc về: Công ty Luật TNHH Quốc Tế TNTP và Các Cộng Sự