Hậu Covid – 19, các doanh nghiệp tăng tốc để sớm phục hồi kinh doanh sản xuất. Tuy nhiên, cũng có nhiều doanh nghiệp đứng trước bờ vực khó khăn, không thể phục hồi và thực hiện hành vi giải thể doanh nghiệp bất hợp pháp để trốn tránh nghĩa vụ thanh toán khoản nợ (“Bên nợ”). Việc giải thể doanh nghiệp khi chưa thanh toán các khoản nợ đã ảnh hưởng nghiêm trọng đến các chủ nợ của doanh nghiệp (“Chủ nợ”). Do đó, câu hỏi đặt ra là mong muốn thu hồi nợ của Chủ nợ đối với Bên nợ đã giải thể có khả thi hay không? Qua bài viết này, TNTP đưa ra những góc nhìn pháp lý giúp Chủ nợ đảm bảo quyền và lợi ích, kiện đòi Bên nợ đã giải thể nhưng chưa thanh toán khoản nợ.

1. Điều kiện hợp pháp để doanh nghiệp giải thể

Trước tiên, chúng ta cần tìm hiểu điều kiện để giải thể doanh nghiệp hợp pháp. Khoản 2 Điều 207 Luật doanh nghiệp 2020 quy định: “Doanh nghiệp chỉ được giải thể khi bảo đảm thanh toán hết các khoản nợ, nghĩa vụ tài sản khác và không trong quá trình giải quyết tranh chấp tại Tòa án hoặc Trọng tài. Người quản lý có liên quan và doanh nghiệp quy định tại điểm d khoản 1 Điều này cùng liên đới chịu trách nhiệm về các khoản nợ của doanh nghiệp.”

Cụ thể, doanh nghiệp cần đảm bảo quyền lợi đối với những người có liên quan, bao gồm nhưng không giới hạn người lao động của doanh nghiệp, chủ nợ, đối tác kinh doanh, cơ quan nhà nước …

Dù doanh nghiệp tự nguyện hay bắt buộc giải thể cũng phải đáp ứng điều kiện này mới được giải thể, nếu không doanh nghiệp sẽ không thể chấm dứt hoạt động bằng thủ tục giải thể. Tuy nhiên, trên thực tế nhiều Bên nợ đã giải thể nhưng chưa đáp ứng các điều kiện trên, chưa thanh toán nợ, cố tình không kê khai các khoản nợ chưa thanh toán khi làm hồ sơ giải thể nhằm trốn tránh nghĩa vụ trả nợ. Như vậy, hồ sơ giải thể đó không đảm bảo tính trung thực và chính xác, đồng thời không có tính hợp pháp.

2. Có đòi được nợ khi Bên nợ đã tuyên bố giải thể?

Hiện nay, nhiều Chủ nợ lo lắng chưa biết xoay sở ra sao khi Bên nợ đã giải thể mà chưa thanh toán khoản nợ. Một câu hỏi đặt ra là “Liệu có đòi được nợ khi Bên nợ là doanh nghiệp đã tuyên bố giải thể hay không ?”

Ý kiến của chúng tôi như sau:

– Căn cứ Khoản 3 Điều 210 Luật Doanh nghiệp năm 2020: Trường hợp hồ sơ giải thể không chính xác, giả mạo, những người quy định tại khoản 2 Điều này phải liên đới chịu trách nhiệm thanh toán quyền lợi của người lao động chưa được giải quyết, số thuế chưa nộp, số nợ khác chưa thanh toán và chịu trách nhiệm cá nhân trước pháp luật về những hệ quả phát sinh trong thời hạn 05 năm kể từ ngày nộp hồ sơ giải thể doanh nghiệp đến Cơ quan đăng ký kinh doanh”;

– Theo đó, các thành viên doanh nghiệp quy định tại Khoản 2 Điều 210 Luật Doanh nghiệp 2020 bao gồm: Thành viên Hội đồng quản trị công ty cổ phần, thành viên Hội đồng thành viên công ty trách nhiệm hữu hạn, chủ sở hữu công ty, chủ doanh nghiệp tư nhân, Giám đốc hoặc Tổng giám đốc, thành viên hợp danh, người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp chịu trách nhiệm về tính trung thực, chính xác của hồ sơ giải thể doanh nghiệp;

 – Bên cạnh đó, căn cứ Khoản 1 Điều 288 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định về nghĩa vụ liên đới giữa các bên “Nghĩa vụ liên đới là nghĩa vụ do nhiều người cùng phải thực hiện và bên có quyền có thể yêu cầu bất cứ ai trong số những người có nghĩa vụ phải thực hiện toàn bộ nghĩa vụ.” Trong trường hợp này, những người quản lý đứng đầu Bên nợ phải cùng liên đới chịu trách nhiệm về các khoản nợ.

Từ những căn cứ trên, có thể thấy rằng Chủ nợ chưa được thanh toán nợ khi Bên nợ đã giải thể hoàn toàn có quyền đòi nợ, cụ thể là đòi các cá nhân nắm giữ chức vụ chủ chốt của Bên nợ quy định tại Khoản 2 Điều 210 Luật Doanh nghiệp 2020 trong thời hạn 05 năm, kể từ ngày Bên nợ nộp hồ sơ giải thể.

Chủ nợ có thể yêu cầu Bên nợ thanh toán toàn bộ khoản nợ cho mình. Trường hợp Bên nợ không thanh toán, Chủ nợ có thể khởi kiện đến cơ quan giải quyết tranh chấp có thẩm quyền để yêu cầu bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Ngoài ra, trong trường hợp xác định được Bên nợ đã giải thể nhưng vẫn còn nợ chưa thanh toán thì bên có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có thể khiếu nại tới cơ quan nhà nước có thẩm quyền về việc giải thể trái pháp luật của Bên nợ.

3. Lưu ý thu thập thông tin những người quản lý đứng đầu doanh nghiệp cùng liên đới chịu trách nhiệm.

Nhiều doanh nghiệp khi xác lập và thực hiện giao dịch với đối tác thường chỉ quan tâm đến người đại diện theo pháp luật mà không tìm hiểu các thông tin về người quản lý đứng đầu doanh nghiệp (người liên đới chịu trách nhiệm theo Khoản 2 Điều 210 Luật Doanh nghiệp khi doanh nghiệp giải thể).

Ngoài ra, khi đối tác giải thể mà chưa thanh toán khoản nợ, chúng tôi thấy rằng Chủ nợ sẽ gặp khó khăn hơn trong quá trình kiện đòi Bên nợ nếu (i) Bên nợ thuê người đại diện theo pháp luật và đã chấm dứt hợp đồng lao động với người đại diện theo pháp luật; hoặc (ii) Người đại diện theo pháp luật là người có quốc tịch nước ngoài và đã về nước.

Chính vì vậy, chúng tôi lưu ý rằng, khi doanh nghiệp xác lập và thực hiện giao dịch với bất kỳ đối tác nào, cần cố gắng thu thập thêm thông tin cá nhân, địa chỉ của những người quản lý đứng đầu doanh nghiệp ngoài người đại diện theo pháp luật. Doanh nghiệp cũng có thể kiểm tra thông tin về đối tác tại Bố cáo điện tử trên trang Cổng thông tin Quốc gia về Đăng ký doanh nghiệp.

Trên đây là chia sẻ kiến thức pháp lý của TNTP về việc thu hồi nợ đối với Bên nợ đã giải thể. Hy vọng bài viết sẽ giúp ích cho công việc của các độc giả.

Có thể bạn chưa đọc Thu hồi nợ của doanh nghiệp dễ hay khó?

Công ty Luật TNHH Quốc tế TNTP và Các Cộng sự

Luật sư: Nguyễn Thanh Hà

Email: ha.nguyen@tntplaw.com