Trong bối cảnh chuyển đổi số trở thành xu hướng tất yếu của xã hội hiện đại, Quốc hội đã chính thức thông qua Luật Giao dịch điện tử số 20/2023/QH15 vào ngày 22/6/2023 (“Luật Giao dịch điện tử 2023”). Luật này sẽ chính thức có hiệu lực từ ngày 01/7/2024, đánh dấu bước tiến đáng kể trong việc hành lang pháp lý cho giao dịch điện tử. Đây được coi là một bước đột phá lớn nhằm khuyến khích các hoạt động giao dịch điện tử, thúc đẩy phát triển giao lưu kinh tế nước ngoài, đơn giản hóa các thủ tục hành chính, giải quyết đơn từ. Một số điểm mới nổi bật của Luật Giao dịch điện tử 2023 đáng chú ý như sau:

1. Sửa đổi, bổ sung về phạm vi điều chỉnh

Luật này chỉ điều chỉnh phương thức thực hiện giao dịch thông qua phương tiện điện tử mà không điều chỉnh nội dung, điều kiện và hình thức của giao dịch. Trong trường hợp pháp luật chuyên ngành có quy định cho phép hoặc không đề cập đến việc thực hiện giao dịch bằng phương tiện điện tử, thì các giao dịch đó được điều chỉnh theo quy định của Luật này. Ngược lại, nếu pháp luật chuyên ngành có quy định không được thực hiện giao dịch bằng phương tiện điện tử, thì việc thực hiện giao dịch phải tuân thủ theo quy định của pháp luật chuyên ngành.

2. Sửa đổi, bổ sung các thuật ngữ pháp lý mới

Luật Giao dịch điện tử 2023 đã mở rộng và bổ sung một số thuật ngữ pháp lý quan trọng, bao gồm chữ ký điện tử, chữ ký số, chứng thư chữ ký điện tử, hợp đồng điện tử và thông điệp dữ liệu,… nhằm tạo cơ sở pháp lý vững chắc cho các giao dịch điện tử. Việc xác định rõ các khái niệm này là tiền đề quan trọng để thiết lập các quy định công nhận giá trị pháp lý của dữ liệu điện tử, cũng như bảo đảm tính hợp pháp và hiệu lực của giao dịch điện tử trong các quy định tiếp theo của Luật.

Ngoài ra, Luật Giao dịch điện tử 2023 cũng đã thay đổi định nghĩa của một số thuật ngữ. “Chứng thư điện tử” là một trong số các thuật ngữ được thay đổi. Theo đó, chứng thư điện tử trong Luật giao dịch điện tử 2023 được hiểu là giấy phép, giấy chứng nhận, chứng chỉ, văn bản xác nhận, văn bản chấp thuận khác do cơ quan, tổ chức có thẩm quyền ban hành dưới hình thức dữ liệu điện tử. Trong khi đó, trong Luật Giao dịch điện tử 2005, chứng thư điện tử chỉ là thông điệp dữ liệu nhằm xác thực danh tính của cơ quan, tổ chức, cá nhân ký chữ ký điện tử. Như vậy, có thể thấy Luật Giao dịch điện tử 2023 đã nâng cao giá trị pháp lý của chứng thư điện tử khi định nghĩa thuật ngữ này là dạng dữ liệu điện tử của các giấy phép, văn bản xác nhận,…

3. Bổ sung điều kiện chuyển đổi hình thức giữa thông điệp dữ liệu và văn bản giấy

Theo quy định tại Điều 12 Luật Giao dịch điện tử 2023, việc chuyển đổi giữa thông điệp dữ liệu và văn bản giấy phải đáp ứng các điều kiện pháp lý nhằm bảo đảm tính toàn vẹn, giá trị pháp lý và khả năng truy xuất thông tin. Cụ thể, các điều kiện bao gồm:

• Tính toàn vẹn của thông tin: Nội dung của thông điệp dữ liệu sau khi được chuyển đổi phải bảo đảm toàn vẹn như văn bản giấy gốc và ngược lại.

• Khả năng truy cập và tham chiếu: Đối với việc chuyển đổi từ văn bản giấy sang thông điệp dữ liệu, thông tin trong thông điệp dữ liệu phải có khả năng truy cập và sử dụng để đối chiếu. Ngược lại, khi chuyển đổi từ thông điệp dữ liệu sang văn bản giấy, cần có thông tin xác định được hệ thống thông tin, chủ quản hệ thống thông tin tạo lập, gửi, nhận và lưu trữ thông điệp dữ liệu gốc để phục vụ tra cứu.

• Xác nhận chuyển đổi: Văn bản giấy hoặc thông điệp dữ liệu sau khi chuyển đổi phải có ký hiệu riêng nhằm xác định đã trải qua quá trình chuyển đổi, đồng thời, cần ghi nhận thông tin về cơ quan, tổ chức hoặc cá nhân thực hiện việc chuyển đổi.

• Yêu cầu đối với văn bản pháp lý và chứng thư điện tử: Trường hợp văn bản giấy là giấy phép, giấy chứng nhận, chứng chỉ, văn bản xác nhận hoặc văn bản chấp thuận khác do cơ quan, tổ chức có thẩm quyền cấp thì việc chuyển đổi phải đáp ứng điều kiện theo quy định và phải có chữ ký số của cơ quan, tổ chức thực hiện chuyển đổi, trừ khi pháp luật có quy định khác. Nếu thông điệp dữ liệu là chứng thư điện tử, việc chuyển đổi phải có chữ ký số và con dấu (nếu có) của cơ quan, tổ chức thực hiện chuyển đổi theo quy định pháp luật.

• Yêu cầu đối với hệ thống thông tin: Hệ thống thông tin được sử dụng để chuyển đổi giữa văn bản giấy và thông điệp dữ liệu phải có tính năng chuyển đổi theo tiêu chuẩn kỹ thuật phù hợp nhằm bảo đảm tính hợp lệ của dữ liệu sau khi chuyển đổi.

4. Sử dụng, công nhận chữ ký điện tử nước ngoài

Trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế, khi nhu cầu giao dịch điện tử xuyên biên giới ngày càng gia tăng, Luật Giao dịch điện tử 2023 đã bổ sung quy định về việc công nhận và sử dụng chữ ký điện tử nước ngoài, chứng thư chữ ký điện tử nước ngoài trong giao dịch quốc tế nhằm bảo đảm tính an toàn, bảo mật và phù hợp với các cam kết quốc tế. Cụ thể, Điều 27 quy định:

• Chấp nhận chữ ký điện tử nước ngoài trong giao dịch quốc tế: Chữ ký điện tử nước ngoài và chứng thư chữ ký điện tử nước ngoài được công nhận trong giao dịch quốc tế khi do tổ chức, cá nhân nước ngoài không có hiện diện tại Việt Nam cung cấp và có giá trị pháp lý đối với thông điệp dữ liệu được gửi đến tổ chức, cá nhân tại Việt Nam.

• Trách nhiệm của các bên sử dụng: Tổ chức, cá nhân khi sử dụng chữ ký điện tử nước ngoài, chứng thư chữ ký điện tử nước ngoài trong giao dịch quốc tế phải tự chịu trách nhiệm về việc chấp nhận và bảo đảm giá trị pháp lý của chữ ký điện tử đó.

Quy định này góp phần thúc đẩy thương mại điện tử, tạo thuận lợi cho hoạt động hợp tác và giao dịch điện tử giữa Việt Nam và các đối tác quốc tế, đồng thời bảo vệ an toàn thông tin trong giao dịch điện tử xuyên biên giới.

5. Bổ sung quy định về điều kiện chữ ký số là chữ ký điện tử

Luật Giao dịch điện tử 2023 tiếp tục nâng cao tiêu chuẩn về chữ ký số nhằm bảo đảm tính xác thực, an toàn và giá trị pháp lý của giao dịch điện tử. Theo Khoản 3 Điều 22, chữ ký số được công nhận là chữ ký điện tử nếu đáp ứng các điều kiện sau:

• Xác nhận danh tính và ý chí của chủ thể ký: Chữ ký số phải xác định được danh tính của chủ thể ký và thể hiện sự chấp thuận của họ đối với thông điệp dữ liệu.

• Liên kết duy nhất với thông điệp dữ liệu: Dữ liệu tạo chữ ký số phải được gắn duy nhất với nội dung của thông điệp dữ liệu mà chủ thể ký chấp thuận.

• Kiểm soát của chủ thể ký: Dữ liệu tạo chữ ký số phải thuộc sự kiểm soát duy nhất của chủ thể ký tại thời điểm ký kết.

• Phát hiện thay đổi sau khi ký: Chữ ký số phải bảo đảm rằng bất kỳ sự thay đổi nào đối với thông điệp dữ liệu sau khi ký đều có thể bị phát hiện.

• Bảo đảm bởi chứng thư chữ ký số hợp lệ: Chữ ký số phải được xác thực bởi chứng thư chữ ký số do tổ chức cung cấp dịch vụ chứng thực chữ ký số cấp, trong đó:

– Chữ ký số chuyên dùng công vụ phải được bảo đảm bởi chứng thư chữ ký số của tổ chức cung cấp dịch vụ chứng thực chữ ký số chuyên dùng công vụ;

– Chữ ký số công cộng phải được bảo đảm bởi chứng thư chữ ký số của tổ chức cung cấp dịch vụ chứng thực chữ ký số công cộng.

• Yêu cầu đối với phương tiện tạo chữ ký số: Phương tiện tạo chữ ký số phải bảo đảm dữ liệu tạo chữ ký số không bị tiết lộ, thu thập trái phép hoặc sử dụng cho mục đích giả mạo. Đồng thời, dữ liệu tạo chữ ký số chỉ có thể sử dụng một lần duy nhất và không làm thay đổi nội dung thông điệp dữ liệu cần ký.

Như vậy, Luật Giao dịch điện tử 2023 giúp hoàn thiện hành lang pháp lý, tạo thuận lợi cho việc chuyển đổi các hoạt động sang môi trường số, mở rộng phạm vi áp dụng của hoạt động giao dịch điện tử tới tất cả các hoạt động của đời sống xã hội, giúp tiết kiệm cho xã hội nhiều chi phí hơn so với giao dịch truyền thống và mang lại nhiều hiệu quả lớn.

Bài viết trên được TNTP gửi đến quý độc giả nhằm cung cấp thông tin về những điểm mới nổi bật của Luật Giao dịch điện tử 2023. Chúng tôi hy vọng bài viết này sẽ mang lại thông tin hữu ích.

Trân trọng,