Do áp lực từ doanh số bán bảo hiểm, cũng như mức hoa hồng cao, một bộ phận nhân viên ngân hàng, nhân viên bảo hiểm sẵn sàng bất chấp mọi thủ đoạn để “dụ dỗ” khách hàng ký kết hợp đồng bảo hiểm. Một trong những thủ đoạn mà họ sử dụng là “Đánh tráo khái niệm” để khách hàng hiểu sai và ký hợp đồng. Vậy, những nhân viên thực hiện hành vi này có thể phạm tội gì? Hãy cùng TNTP tìm hiểu thông qua bài viết dưới đây.

1. Thế nào là hành vi “Đánh tráo khái niệm”?

Theo Đại từ điển Tiếng Việt, Nhà xuất bản Văn hóa Thông tin năm 1999, “đánh tráo là hành động thay thế cái này bằng cái khác một cách khéo léo để giành phần lợi hoặc một mục đích nào đó”. Còn “khái niệm là một hình thức tư duy của loài người giúp người ta hiểu biết những đặc trưng chung, chủ yếu của các sự vật và hiện tượng của hiện thực khách quan”. Vì vậy, “đánh tráo khái niệm” có thể hiểu là hành động thay thế khái niệm này bằng khái niệm khác, khiến người ta hiểu sai về sự vật, hiện tượng của hiện thực khách quan nhằm đạt một mục đích nào đó.

Từ các phân tích nêu trên, có thể hiểu “đánh tráo khái niệm” trong hoạt động kinh doanh bảo hiểm là hành vi của nhân viên đưa ra các khái niệm/thuật ngữ thay thế, thậm chí không đúng với bản chất của giao dịch khiến khách hàng bị nhầm lẫn hoặc hiểu sai dẫn đến việc khách hàng ký kết hợp đồng bảo hiểm.

Gần đây, những vụ việc nhân viên ngân hàng, nhân viên bán bảo hiểm cố ý tư vấn sai cho khách hàng để bán bảo hiểm đã trở thành đề tài đạt được nhiều sự quan tâm của người dân. Theo đó, khi khách hàng đến gửi tiết kiệm tại ngân hàng, thay vì hướng dẫn và mở sổ tiết kiệm cho khách hàng, những nhân viên này lại tư vấn khách hàng mua gói sản phẩm liên kết giữa ngân hàng và công ty bảo hiểm. Có nhiều lý do khiến vụ việc này xảy ra, ví dụ như các nhân viên này bị ép KPI bán bảo hiểm, các nhân viên này được hưởng hoa hồng từ hợp đồng bảo hiểm,… Những nhân viên này đã tư vấn cho khách hàng rằng đây là gói tiết kiệm đầu tư có lãi suất cao và có tặng kèm gói bảo hiểm nhân thọ. Trên cơ sở các thông tin được cung cấp, khách hàng hiểu rằng gói bảo hiểm nhân thọ là sản phẩm được tặng kèm theo dịch vụ gửi tiết kiệm. Do không am hiểu về nghiệp vụ ngân hàng và bảo hiểm, khách hàng đã tin tưởng vào lời tư vấn của nhân viên và đồng ý ký kết hợp đồng. Tuy nhiên, khi có nhu cầu rút tiền tiết kiệm, khách hàng mới phát hiện ra rằng hợp đồng mà họ đã ký kết có nội dung hoàn toàn khác so với nội dung mà họ được tư vấn và chứa đựng nhiều nội dung bất lợi với họ. Thực tế, số tiền mà khách hàng nghĩ là được gửi tiết kiệm lại không được gửi tiết kiệm mà thay vào đó là tham gia bảo hiểm. Khách hàng có nghĩa vụ đóng bảo hiểm định kỳ, trường hợp khách hàng chấm dứt hợp đồng hoặc không tiếp tục đóng phí thì họ sẽ bị mất toàn bộ số tiền. Thời gian mà khách hàng phải tiếp tục tham gia bảo hiểm có thể kéo dài từ vài năm đến vài chục năm tùy thuộc vào nội dung hợp đồng.

Như vậy, trong trường hợp nêu trên, nhân viên ngân hàng đã cố ý tư vấn sai sự thật, đưa ra các thông tin không đúng với bản chất của giao dịch, đánh tráo khái niệm có bản chất là “tham gia bảo hiểm” thành “gửi tiết kiệm có lãi suất cao” khiến khách hàng hiểu sai và ký kết hợp đồng. Đây là hành vi vi phạm pháp luật, ảnh hưởng đến quyền lợi của khách hàng và có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định của pháp luật.

2. Nhân viên “đánh tráo khái niệm” để khách hàng ký hợp đồng bảo hiểm có thể phạm tội gì?

Theo quy định của pháp luật hiện hành, nhân viên cố ý đưa ra thông tin sai sự thật, “đánh tráo khái niệm” để khách hàng tin tưởng giao kết hợp đồng bảo hiểm nhằm thu lợi bất chính có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” theo quy định tại Điều 174 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 (“BLHS”).

Để có thể chiếm đoạt tài sản của khách hàng, những nhân viên này đã đưa ra thông tin giả, sai sự thật để làm cho khách hàng tin là thật và tự nguyện giao tài sản cho người phạm tội. Do bị lừa dối nên khách hàng mới đồng ý ký kết hợp đồng bảo hiểm. Trừ những trường hợp khác theo Điều 174 BLHS, chỉ cần tài sản bị chiếm đoạt có trị từ 2.000.000 đồng trở lên, những nhân viên này có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản theo Điều 174 BLHS, cụ thể như sau:

“Điều 174. Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản
1. Người nào bằng thủ đoạn gian dối chiếm đoạt tài sản của người khác trị giá từ 2.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng hoặc dưới 2.000.000 đồng nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm:
a) Đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi chiếm đoạt tài sản mà còn vi phạm;
b) Đã bị kết án về tội này hoặc về một trong các tội quy định tại các điều 168, 169, 170, 171, 172, 173, 175 và 290 của Bộ luật này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm;
c) Gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội;
d) Tài sản là phương tiện kiếm sống chính của người bị hại và gia đình họ.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm:
a) Có tổ chức;
b) Có tính chất chuyên nghiệp;
c) Chiếm đoạt tài sản trị giá từ 50.000.000 đồng đến dưới 200.000.000 đồng;
d) Tái phạm nguy hiểm;
đ) Lợi dụng chức vụ, quyền hạn hoặc lợi dụng danh nghĩa cơ quan, tổ chức;
e) Dùng thủ đoạn xảo quyệt;
3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 07 năm đến 15 năm:
a) Chiếm đoạt tài sản trị giá từ 200.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng;
b) Lợi dụng thiên tai, dịch bệnh.
4. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 12 năm đến 20 năm hoặc tù chung thân:
a) Chiếm đoạt tài sản trị giá 500.000.000 đồng trở lên;
b) Lợi dụng hoàn cảnh chiến tranh, tình trạng khẩn cấp.
5. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản.”

Như vậy, hành vi đánh tráo khái niệm của nhân viên bảo hiểm để khách hàng ký kết hợp đồng bảo hiểm có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản. Tùy theo từng mức độ, tính chất của hành vi vi phạm mà người phạm tội có thể bị phạt tù từ 06 tháng đến tù chung thân. Ngoài ra, người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản. Do vậy, nhân viên ngân hàng, nhân viên bảo hiểm cần đặc biệt lưu ý các chế tài xử lý của pháp luật để từ đó nghiêm túc tuân thủ quy định của pháp luật.

Trên đây là nội dung bài viết “Nhân viên “đánh tráo khái niệm” để khách hàng ký kết hợp đồng bảo hiểm có thể phạm tội gì?” mà TNTP gửi đến bạn đọc. Nếu có bất kỳ vấn đề nào cần trao đổi, vui lòng liên hệ với TNTP để được hỗ trợ tốt nhất.

Trân trọng,