Tại bài viết “Một số vấn đề về việc xác minh địa chỉ của người bị kiện khi khởi kiện tại Tòa án” phần trước, TNTP đã hướng dẫn về cách xác minh địa chỉ của người bị kiện khi Tòa án yêu cầu người khởi kiện phải xác minh địa chỉ của người bị kiện cũng như biện pháp giải quyết trong trường hợp người khởi kiện không xác minh được địa chỉ của người bị kiện. Tuy nhiên, trên thực tế, một số Tòa án không chấp nhận giải trình của người khởi kiện và ra Quyết định trả lại đơn khởi kiện với lý do không sửa đổi, bổ sung đơn khởi kiện theo yêu cầu của Thẩm phán. Trong trường hợp này, người khởi kiện sẽ tiến hành khiếu nại Quyết định trả lại đơn khởi kiện theo quy định pháp luật. Tuy nhiên, căn cứ khiếu nại trong trường hợp này là gì để người khởi kiện có thể bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình? Bài viết này sẽ đề cập đến phương án giải quyết khi người khởi kiện bị Tòa án trả lại đơn khởi kiện do người khởi kiện không xác minh được địa chỉ của người bị kiện.
1. Căn cứ trả lại đơn khởi kiện của Tòa án
Thông thường, nếu Tòa án yêu cầu người khởi kiện xác minh địa chỉ của người bị kiện nhưng người khởi kiện không xác minh được thì Tòa án sẽ trả lại đơn khởi kiện theo Điểm e Khoản 1 Điều 192 BLTTDS 2015 quy định về Trả lại đơn khởi kiện, hậu quả của việc trả lại đơn khởi kiện, theo đó, thẩm phán trả lại đơn khởi kiện trong trường hợp người khởi kiện không sửa đổi, bổ sung đơn khởi kiện theo yêu cầu của Thẩm phán quy định tại Khoản 2 Điều 193 Bộ luật Tố tụng Dân sự. Tòa án cho rằng người khởi kiện không ghi đầy đủ, cụ thể hoặc ghi không đúng địa chỉ của người bị kiện mà không sửa chữa, bổ sung theo yêu cầu của Thẩm phán thì Thẩm phán có quyền trả lại đơn khởi kiện. Tuy nhiên, theo quy định của pháp luật hiện hành, việc trả lại đơn khởi kiện của Thẩm phán trong trường hợp này không đúng quy định của pháp luật, người khởi kiện chỉ cần ghi đầy đủ và đúng địa chỉ nơi cư trú của người bị kiện tại Đơn khởi kiện, trường hợp người khởi kiện không xác minh được địa chỉ của người bị kiện thì không phải là một trong những căn cứ để Thẩm phán trả lại Đơn khởi kiện.
2. Căn cứ khiếu nại Quyết định trả lại đơn khởi kiện của Tòa án
-
- Thứ nhất: Quy định về việc cung cấp địa chỉ của người bị kiện.
Điểm e Khoản 1 Điều 192 BLTTDS 2015 quy định về trả lại đơn khởi kiện, hậu quả của việc trả lại đơn khởi kiện, theo đó: (i) trường hợp trong đơn khởi kiện, người khởi kiện đã ghi đầy đủ và đúng địa chỉ nơi cư trú của người bị kiện nhưng họ không có nơi cư trú ổn định, thường xuyên thay đổi nơi cư trú, trụ sở mà không thông báo địa chỉ mới cho cơ quan, người có thẩm quyền theo quy định của pháp luật về cư trú làm cho người khởi kiện không biết được nhằm mục đích che giấu địa chỉ, trốn tránh nghĩa vụ đối với người khởi kiện thì Thẩm phán không trả lại đơn khởi kiện mà xác định người bị kiện cố tình giấu địa chỉ và tiến hành thụ lý, giải quyết theo thủ tục chung; và (ii) Trường hợp trong đơn khởi kiện, người khởi kiện không ghi đầy đủ, cụ thể hoặc ghi không đúng tên, địa chỉ của người bị kiện, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan mà không sửa chữa, bổ sung theo yêu cầu của Thẩm phán thì Thẩm phán trả lại đơn khởi kiện;
Do đó, nếu tại Đơn khởi kiện người khởi kiện đã ghi đầy đủ và đúng địa chỉ nơi cư trú của người bị kiện thì Tòa án sẽ giải quyết theo thủ tục chung và Thâm phán không được trả lại Đơn khởi kiện trong trường hợp này, nếu tại Đơn khởi kiện người khởi kiện không ghi đầy đủ, cụ thể hoặc ghi không đúng tên, địa chỉ của người bị kiện mà không sửa chữa, bổ sung theo yêu cầu của Thẩm phán thì Thẩm phán trả lại đơn khởi kiện.
-
- Thứ hai: Quy định về việc ghi đầy đủ và đúng địa chỉ nơi cư trú của người bị kiện.
Căn cứ theo quy định tại Khoản 1 và Khoản 2 Điều 5 Nghị quyết 04/2017/HĐTP quy định về địa chỉ của người bị kiện, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan cụ thể: (i) Trường hợp người bị kiện là công dân Việt Nam, người Việt Nam định cư ở nước ngoài vẫn còn quốc tịch Việt Nam trở về Việt Nam sinh sống thì nơi cư trú của họ là địa chỉ chỗ ở hợp pháp mà người bị kiện đã đăng ký thường trú, tạm trú hoặc trường hợp không xác định được nơi thường trú, tạm trú thì xác định theo nơi ở hiện tại của người bị kiện; (ii) Trường hợp người bị kiện là người nước ngoài đang cư trú tại Việt Nam thì nơi cư trú của họ được xác định theo địa chỉ tại Chứng nhận tạm trú, thẻ tạm trú, thẻ thường trú do cơ quan có thẩm quyền cấp; (iii) Trường hợp người bị kiện là người nước ngoài, người Việt Nam đang cư trú ở nước ngoài thì nơi cư trú của họ được xác định căn cứ vào tài liệu, chứng cứ do người khởi kiện cung cấp hoặc theo tài liệu, chứng cứ do cơ quan có thẩm quyền cấp, xác nhận; và (iv) Trường hợp người bị kiện là cơ quan, tổ chức có quốc tịch Việt Nam thì địa chỉ của cơ quan, tổ chức được xác định là nơi cơ quan, tổ chức đó có trụ sở chính hoặc chi nhánh theo quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
Theo đó, trường hợp người khởi kiện đã cung cấp địa chỉ “nơi cư trú, làm việc, hoặc nơi có trụ sở” của người bị kiện cho Tòa án theo đúng quy định của pháp luật và hướng dẫn tại thời điểm nộp đơn khởi kiện mà được cơ quan, tổ chức có thẩm quyền cấp, xác nhận hoặc có căn cứ khác chứng minh rằng đó là địa chỉ của người bị kiện thì được coi là đã ghi đúng địa chỉ của người bị kiện.
Việc người khởi kiện cung cấp địa chỉ theo Căn cước công dân, Chứng minh nhân dân, sổ hộ khẩu, Chứng nhận tạm trú, thẻ tạm trú,…. (“Giấy tờ chứng thực cá nhân”) đối với cá nhân, Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp (“GCNĐKDN”) đối với pháp nhân, tổ chức thì nếu Giấy tờ chứng thực cá nhân và GCNĐKDN vẫn đang có hiệu lực tại thời điểm nộp đơn khởi kiện thì phải coi là đã ghi đúng địa chỉ của người bị kiện do đây là những tài liệu chứa đựng thông tin về địa chỉ do cơ quan, tổ chức có thẩm quyền cấp. Trường hợp người khởi kiện không có thông tin Giấy tờ chứng thực cá nhân của người bị kiện nhưng cung cấp địa chỉ dựa theo Hợp đồng mà các bên đã ký kết thì sẽ coi là có căn cứ khác chứng minh đó là địa chỉ của người bị kiện và người khởi kiện đã ghi đúng địa chỉ của người bị kiện và từ đó Tòa án phải tiến hành thụ lý vụ án. Nếu Tòa án yêu cầu phải do cơ quan có thẩm quyền xác nhận thì điều này không khác nào yêu cầu người khởi kiện phải chứng minh hai lần, vừa phải cung cấp địa chỉ do cơ quan có thẩm quyền cấp, vừa phải được cơ quan có thẩm quyền xác nhận trong khi Điều 5 Nghị quyết 04/2017/NQ-HĐTP chỉ yêu cầu cơ quan, tổ chức có thẩm quyền cấp hoặc xác nhận hoặc có căn cứ khác. Điều này không đảm bảo được quyền và lợi ích hợp pháp của người khởi kiện và cũng là gây khó cho người khởi kiện khi tiến hành khởi kiện.
-
- Thứ ba: Thời hiệu khiếu nại Quyết định trả lại Đơn khởi kiện.
Căn cứ theo quy định tại Khoản 22 Điều 70 Bộ luật tố tụng dân sự 2015 quy định về quyền, nghĩa vụ của đương sự và Khoản 1 Điều 194 Bộ luật tố tụng dân sự 2015 quy định về khiếu nại, kiến nghị và giải quyết khiếu nại, kiến nghị về việc trả lại đơn khởi kiện, theo đó, người khởi kiện có quyền khiếu nại quyết định của Tòa án trong thời hạn 10 ngày kể từ ngày nhận được văn bản trả lại đơn khởi kiện của Tòa án.
Như vậy có thể thấy, việc người khởi kiện đã cung cấp địa chỉ của người bị kiện theo thông tin tại Giấy tờ chứng thực cá nhân và GCNĐKDN đã được coi là ghi đúng địa chỉ của người bị kiện theo quy định của pháp luật và trong trường hợp Tòa án yêu cầu người khởi kiện cung cấp xác nhận của cơ quan Công an đối với địa chỉ của người bị kiện nhưng người bị kiện dù đã dùng mọi biện pháp nhưng không thể tự mình thu thập được thì có thể yêu cầu Tòa án hỗ trợ thu thập chứng cứ và trong trường hợp này Tòa án không được trả lại hồ sơ khởi kiện với lý do người khởi kiện không tiến hành sửa đổi, bổ sung theo yêu cầu của Tòa án. Nếu Tòa án ban hành Quyết định trả lại đơn khởi kiện, người khởi kiện có quyền khiếu nại Quyết định này trong thời hạn 10 ngày kể từ ngày nhận được Quyết định.
Trên đây là những chia sẻ pháp lý về vấn đề xác minh địa chỉ của người bị kiện khi tham gia tố tụng tại Tòa án. Hy vọng bài viết này có ích cho các bạn.
Trân trọng.
Tham gia Fanpage GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP VÀ THU HỒI NỢ để nhận được những thông tin pháp lý bổ ích.
Công ty Luật TNHH Quốc tế TNTP và Các Cộng sự
Tầng 4 số 200 phố Nguyễn Lương Bằng, Phường Quang Trung, Quận Đống Đa, Hà Nội
Luật sư Nguyễn Thanh Hà
Email: ha.nguyen@tntplaw.com