Skip to main content

Author: TNTP LAW

Luật Nhà ở 2023 và những điểm mới “xoay chuyển thế cục” thị trường nhà ở tại Việt Nam

Ngày 27/11/2023, tại Kỳ họp thứ 6, Quốc hội khóa XV đã chính thức thông qua Luật Nhà ở sửa đổi và có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2025. Đáng chú ý, Luật có nhiều nội dung mới nhằm đáp ứng được tình hình thực tiễn trong bối cảnh xã hội hiện nay tại Việt Nam và siết chặt lại khung pháp lý về quản lý nhà nước đối với các loại hình nhà ở. Bài viết dưới đây tập trung trình bày những điểm mới nổi bật có tác động mạnh đến thị trường nhà ở tại Việt Nam hiện nay. Những nội dung này có thể dẫn đến việc thay đổi hành vi của người dân trong việc mua, bán, đầu tư, xây dựng và các mục đích khác.

1. Siết chặt quy định về việc phân lô bán nền

Căn cứ Khoản 2 Điều 41 Nghị định 43/2014/NĐ-CP quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Đất đai, chủ đầu tư dự án xây dựng kinh doanh nhà ở để bán hoặc để bán kết hợp cho thuê được chuyển nhượng quyền sử dụng đất dưới hình thức phân lô, bán nền tại các khu vực không nằm trong địa bàn các quận nội thành của các đô thị loại đặc biệt; khu vực có yêu cầu cao về kiến trúc cảnh quan, khu vực trung tâm và xung quanh các công trình là điểm nhấn kiến trúc trong đô thị; mặt tiền các tuyến đường cấp khu vực trở lên và các tuyến đường cảnh quan chính trong đô thị.

Tuy nhiên, căn cứ Khoản 5 Điều 5 Luật Nhà ở 2023, khu vực không được phân lô bán nền đã được mở rộng ra “chủ đầu tư dự án đầu tư xây dựng nhà ở phải xây dựng nhà ở để bán tại các khu vực phường, quận, thành phố thuộc đô thị loại đặc biệt, loại I, loại II và loại III. Đối với các khu vực còn lại, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh căn cứ điều kiện của địa phương để xác định các khu vực chủ đầu tư dự án đầu tư xây dựng nhà ở phải xây dựng nhà ở để bán, cho thuê mua, cho thuê hoặc được chuyển nhượng quyền sử dụng đất theo hình thức phân lô bán nền để cá nhân tự xây dựng nhà ở.”

Như vậy, so với quy định hiện hành thì Luật Nhà ở 2023 đã mở rộng khu vực không được phép phân lô, bán nền. Cụ thể, chủ đầu tư dự án đầu tư xây dựng nhà ở không được chuyển nhượng quyền sử dụng đất theo hình thức phân lô bán nền đối với đất tại các khu vực phường, quận, thành phố thuộc đô thị loại đặc biệt, loại I, loại II và loại III. Đối với các khu vực còn lại, UBND cấp tỉnh tự quyết các khu vực được phân lô, bán nền. Việc quy định như vậy trước hết là để thống nhất với các quy định mới trong Luật Kinh doanh Bất động sản 2023. Ngoài ra, khi các quy định về phân lô bán nền được siết chặt lại sẽ phần nào khắc phục, bình ổn lại tình trạng tách thửa tràn lan để chuyển mục đích thành đất ở, phá vỡ quy hoạch đô thị, lãng phí đất đai, tình trạng đầu cơ nhà đất trong những năm gần đây.

2. Quy định mới về chung cư mini

2.1. Khái niệm về chung cư mini

“Chung cư mini” là cách gọi quen thuộc cho mô hình chung cư có nhiều tầng, nhiều phòng dạng căn hộ ở để bán, cho thuê mua, cho thuê. Chung cư mini có diện tích khiêm tốn, giá cả phải chăng nên căn hộ chung cư mini thường phù hợp với người có thu nhập trung bình, thấp. Điều 57 Luật Nhà ở 2023 đã mô tả loại hình nhà ở này với tên gọi “Nhà ở nhiều tầng nhiều căn hộ của cá nhân để bán, cho thuê mua, cho thuê”, với kết cấu như sau:

– Nhà ở có từ 02 tầng trở lên mà tại mỗi tầng có thiết kế, xây dựng căn hộ để bán, để cho thuê mua, để kết hợp bán, cho thuê mua, cho thuê căn hộ; hoặc

– Nhà ở có từ 02 tầng trở lên và có quy mô từ 20 căn hộ trở lên để cho thuê.

2.2. Điều kiện của cá nhân muốn đầu tư kinh doanh xây dựng chung cư mini

Theo quy định tại Khoản 1 Điều 57 Luật Nhà ở 2023, cá nhân muốn xây dựng chung cư mini cần phải đáp ứng điều kiện làm chủ đầu tư dự án đầu tư xây dựng nhà ở. Theo Điều 35 Luật Nhà ở 2023, chủ đầu tư dự án đầu tư xây dựng nhà ở gồm doanh nghiệp hoặc hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã, bao gồm cả tổ chức kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài được thành lập và hoạt động theo pháp luật Việt Nam và đáp ứng các điều kiện như:

– Có vốn chủ sở hữu theo quy định của pháp luật về kinh doanh bất động sản để thực hiện đối với từng dự án đầu tư xây dựng nhà ở;

– Có quyền sử dụng đất để thực hiện đối với từng loại dự án đầu tư xây dựng nhà ở theo quy định của Luật Nhà ở hoặc được giao đất, cho thuê đất theo quy định của Luật Đất đai; và

– Có năng lực, kinh nghiệm để thực hiện dự án đầu tư xây dựng nhà ở theo quy định của pháp luật.

2.3. Điều kiện xây dựng chung cư mini

Cá nhân có quyền sử dụng đất ở xây dựng nhà ở có từ 02 tầng trở lên và có quy mô dưới 20 căn hộ mà tại mỗi tầng có thiết kế, xây dựng căn hộ để cho thuê thì phải thực hiện theo quy định sau đây:

– Đáp ứng yêu cầu xây dựng nhà ở nhiều tầng nhiều căn hộ của cá nhân theo quy định của Bộ trưởng Bộ Xây dựng;

– Đáp ứng yêu cầu về phòng cháy, chữa cháy theo quy định của pháp luật về phòng cháy, chữa cháy đối với nhà ở nhiều tầng nhiều căn hộ của cá nhân; và

– Đáp ứng điều kiện theo quy định của Ủy ban nhân dân cấp tỉnh về đường giao thông để phương tiện chữa cháy thực hiện nhiệm vụ chữa cháy tại nơi có nhà ở nhiều tầng nhiều căn hộ của cá nhân.

Cá nhân có quyền sử dụng đất ở xây dựng nhà ở có từ 02 tầng trở lên và có quy mô dưới 20 căn hộ mà tại mỗi tầng có thiết kế, xây dựng căn hộ để bán, để cho thuê mua thì phải đáp ứng điều kiện quy định giống với điều kiện của cá nhân muốn đầu tư kinh doanh xây dựng chung cư mini.

2.4. Chung cư mini được cấp quyền sở hữu

Căn cứ Khoản 2 Điều 57 Luật Nhà ở 2023 thì các căn hộ đáp ứng các điều kiện nêu trên được cấp Giấy chứng nhận theo quy định của pháp luật về đất đai. Tuy nhiên, nội dung này vẫn chưa được hướng dẫn cụ thể.

Nhìn chung, Luật Nhà ở 2023 bổ sung các quy định về các điều kiện, quy chuẩn xây dựng chung cư mini. Đây là cơ sở để quản lý chặt chẽ và hiệu quả hơn đối với loại hình nhà ở này, góp phần đảm bảo an toàn phòng cháy chữa cháy, đạt quy chuẩn, tiêu chuẩn xây dựng, đảm bảo vận hành sử dụng thuận tiện cho loại hình chung cư mini, cũng như đảm bảo ổn định cuộc an toàn tính mạng, sức khỏe cho người dân.

Tuy nhiên, các điều kiện mà cá nhân phải đáp ứng khi muốn tham gia đầu tư loại hình này đang có sự mâu thuẫn trong Luật Nhà ở 2023. Cụ thể, để đầu tư xây dựng chung cư mini, cá nhân phải đáp ứng các điều kiện để trở thành chủ đầu tư theo Điều 35 Luật này. Trong khi đó, để trở thành chủ đầu tư thì các chủ thể đó phải là Doanh nghiệp hoặc Hợp tác xã kinh doanh bất động sản.

3. Không giới hạn thời hạn sở hữu nhà chung cư

Luật Nhà ở 2023 không đặt ra thời hạn sở hữu nhà chung cư mà chỉ quy định thời hạn sử dụng nhà chung cư. Cụ thể, Điều 58 Luật này quy định thời hạn sử dụng nhà chung cư được xác định theo hồ sơ thiết kế và thời gian sử dụng thực tế nhà chung cư theo kết luận kiểm định của cơ quan có thẩm quyền. Khi nhà chung cư hết thời hạn sử dụng theo hồ sơ thiết kế hoặc chưa hết thời hạn sử dụng nhưng bị hư hỏng, có nguy cơ sụp đổ, không bảo đảm an toàn cho chủ sở hữu, người sử dụng nhà chung cư thì UBND cấp tỉnh phải chỉ đạo thực hiện việc kiểm định, đánh giá chất lượng công trình nhà chung cư theo quy định.

Việc quy định như vậy là hợp lý bởi quyền sở hữu của mỗi chủ thể đối với tài sản thuộc sở hữu của mình cần được pháp luật bảo vệ và chỉ được chấm dứt theo ý chí của chủ sở hữu. Đồng thời, trường hợp quy định thời hạn sở hữu nhà chung cư có thể sẽ gây ảnh hưởng đến tâm lý người mua nhà chung cư, dẫn đến thay đổi hành vi, không lựa chọn mua nhà chung cư.

4. Các chính sách ưu đãi mới đối với nhà ở xã hội

(a) Bổ sung đối tượng được mua nhà ở xã hội: Căn cứ Điều 76 Luật Nhà ở 2023, 02 đối tượng mới được mua nhà ở xã hội gồm: (i) Học sinh, sinh viên đại học, học viện, trường đại học, cao đẳng, dạy nghề, trường chuyên biệt theo quy định của pháp luật; học sinh trường dân tộc nội trú công lập; và (ii) Doanh nghiệp, hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã trong khu công nghiệp.

Ngoài ra, theo Luật Nhà ở 2023, trong thời hạn 5 năm, bên mua, thuê mua chỉ được bán lại nhà ở xã hội cho chủ đầu tư dự án đầu tư xây dựng nhà ở xã hội hoặc bán lại cho đối tượng thuộc trường hợp được mua nhà ở xã hội với giá bán tối đa bằng giá bán nhà ở xã hội này trong hợp đồng mua bán với chủ đầu tư dự án đầu tư xây dựng nhà ở xã hội.

(b) Bổ sung ưu đãi cho chủ đầu tư dự án xây dựng nhà ở xã hội

– Được miễn tiền sử dụng đất, tiền thuê đất đối với toàn bộ diện tích đất của dự án; chủ đầu tư không phải thực hiện thủ tục xác định giá đất, tính tiền sử dụng đất, tiền thuê đất được miễn và không phải thực hiện thủ tục đề nghị miễn tiền sử dụng đất, tiền thuê đất, trừ trường hợp do pháp luật quy định (Điểm a Khoản 2 Điều 85);

– Chủ đầu tư được hưởng lợi nhuận mức tối đa 10% tổng chi phí đầu tư xây dựng đối với phần diện tích xây dựng nhà ở xã hội (Điểm c Khoản 2 Điều 85);

– Chủ đầu tư được dành tối đa 20% tổng diện tích đất ở để xây dựng công trình kinh doanh dịch vụ thương mại, nhà ở thương mại, hạch toán riêng, không tính chi phí xây dựng phần thương mại vào giá nhà ở xã hội và được hưởng toàn bộ lợi nhuận, phải nộp toàn bộ tiền sử dụng đất cho diện tích xây dựng nhà ở thương mại (Điểm d Khoản 2 Điều 85).

Việc mở rộng đối tượng hưởng chính sách ưu đãi về nhà ở xã hội và bổ sung ưu đãi cho các nhà đầu tư tham gia xây dựng nhà ở xã hội nhằm thúc đẩy phát triển loại hình nhà ở này hiện nay. Đây là định hướng của Nhà nước trong việc phát triển xã hội, phù hợp với thực trạng kinh tế, xã hội của Việt Nam nhằm hỗ trợ các đối tượng có thu nhập trung bình thấp góp phần thu hút lao động có trình độ, tay nghề cao giữa các địa phương, ổn định sản xuất, đời sống của người dân.

Trên đây là một số điểm mới nổi bật của Luật Nhà ở 2023 mà TNTP muốn gửi đến độc giả.

Trân trọng,

Lợi ích của phương pháp hòa giải, đối thoại tại Tòa án

Trong quy luật vận hành của xã hội, tranh chấp luôn là điều khó tránh khỏi. Việc xử lý các tranh chấp không chỉ là một vấn đề phức tạp mà còn là trọng tâm của sự công bằng và ổn định xã hội. Trên thực tế, khi có tranh chấp diễn ra có rất nhiều phương pháp giải quyết tranh chấp khác nhau. Mỗi phương pháp đều có những ưu, nhược điểm riêng, việc chọn lựa phương pháp phù hợp có thể ảnh hưởng không nhỏ đến quá trình giải quyết và kết quả của vụ án. Tuy nhiên, phương pháp hòa giải, đối thoại lại chưa được nhiều người chú ý đến so với đúng tiềm năng của nó. Theo đó, qua bài viết này, TNTP sẽ gửi đến Quý bạn đọc bài viết với nội dung “Lợi ích của phương pháp hòa giải, đối thoại tại Tòa án”.

1. Thế nào là hòa giải, đối thoại tại Tòa án

• Hòa giải tại Tòa án là hoạt động hòa giải do Hòa giải viên tiến hành trước khi Tòa án thụ lý vụ việc dân sự, nhằm hỗ trợ các bên tham gia hòa giải thỏa thuận giải quyết vụ việc dân sự theo quy định.

• Đối thoại tại Tòa án là hoạt động đối thoại do Hòa giải viên tiến hành trước khi Tòa án thụ lý vụ án hành chính, nhằm hỗ trợ các bên tham gia đối thoại thống nhất giải quyết khiếu kiện hành chính theo quy định.

Như vây, hòa giải, đối thoại tại Tòa án là hoạt động được thực hiện bởi các Hòa giải viên, được Tòa án có thẩm quyền tuyển chọn và bổ nhiệm từ những chuyên gia, nhà chuyên môn có uy tín trong cộng đồng dân cư, đáp ứng các tiêu chuẩn quy định tại khoản 1 Điều 10 Luật hòa giải, đối thoại tại Tòa án năm 2020. Quá trình này nhằm giải quyết các vụ án mà người khởi kiện đã nộp đơn đến Tòa án, nhưng Tòa án chưa thụ lý và xử lý theo thủ tục tố tụng.

2. Những lợi ích của việc hòa giải, đối thoại tại Tòa án

a. Giảm thiểu thời gian và công sức

• Hòa giải và đối thoại tại Tòa án được thi hành dựa trên quy định của Luật Hòa giải, Đối thoại tại Tòa án năm 2020. Tên gọi “hòa giải, đối thoại tại Tòa án” rất dễ gây hiểu nhầm đây là một quy trình trong tố tụng tại Tòa án, tuy nhiên, thực chất đây là thủ tục hòa giải ngoài tố tụng.

Do vậy, thời gian của việc hòa giải, đối thoại sẽ được áp dụng theo quy định của Luật Hòa giải, đối thoại tại Tòa án. Thời gian trung bình giải quyết vụ việc là khoảng 1,5 tháng. Nếu như vụ việc các bên thống nhất kéo dài cũng không quá 02 tháng. Ngoài ra, trong quá trình hòa giải, đối thoại nếu các bên không tìm được tiếng nói chung cũng có quyền yêu cầu chấm dứt việc hòa giải, đối thoại bất cứ lúc nào.

• Các bên có thể chủ động lựa chọn thời gian và địa điểm tiến hành phiên hòa giải. Khác với thủ tục tố tụng tại Tòa án được thực hiện trong giờ hành chính, còn với việc các bên lựa chọn Hòa giải, đối thoại có thể chọn lựa thời gian, địa điểm, cách thức hòa giải phù hợp. Điều này có nghĩa là việc tổ chức hòa giải có thể diễn ra ở trong hoặc ngoài trụ sở của Tòa án, ngoài giờ hành chính, và cũng có thể là bằng cách gặp gỡ trực tiếp hoặc thông qua các phương tiện khác mà các bên đề xuất và thỏa thuận.

b. Tiết kiệm chi phí

• Chi phí hòa giải, đối thoại do Ngân sách nhà nước đảm bảo, trừ trong các trường hợp như: tranh chấp kinh doanh, thương mại lớn; lựa chọn địa điểm hòa giải ngoài trụ sở tòa án; xem xét tình trạng tài sản ngoại tỉnh; phiên dịch tiếng nước ngoài…Việc quy định như vậy nhằm khuyến khích các bên thực hiện hòa giải, đối thoại.

• Còn khi các bên lựa chọn giải quyết tranh chấp trong thủ tục tố tụng tại Tòa án thì mức phí tối thiểu phải chịu từ 300.000 đồng trở lên, tùy theo loại tranh chấp và tài sản tranh chấp, giá trị tranh chấp lớn thì án phí sẽ cao hơn. Ngoài ra các bên vẫn phải chịu những chi phí phát sinh khác liên quan theo quy định.

c. Giải quyết xung đột, tranh chấp đạt được sự đồng thuận cao

• Trong hòa giải, các bên tham gia hoàn toàn tự nguyện đạt được thỏa thuận về cách giải quyết tranh chấp. Khi hòa giải thành công, các nội dung giải quyết tranh chấp phản ánh ý chí của tất cả các bên, và tất cả đều hài lòng với kết quả. Nói cách khác, trong quá trình hòa giải, không có người chiến thắng hoặc người thua, mà mọi bên đều đạt được điều mình mong muốn. Từ đó giảm bớt được căng thẳng, gìn giữ được những mối quan hệ, sự hợp tác giữa các bên.

• Vì nội dung thỏa thuận khi hòa giải, đối thoại đều được các bên đồng thuận cao. Nên sau khi hòa giải thành các bên thi hành nội dung hòa giải một các tự nguyện, nhanh chóng.

d. Bảo mật thông tin của các bên

Tính riêng tư và quyền tự quyết của các bên là trọng tâm trong quá trình hòa giải, đối thoại. Thông tin trong hòa giải được bảo mật nghiêm ngặt, đảm bảo sự tin cậy và tôn trọng giữa các bên. Mọi thảo luận và quyết định đều diễn ra một cách riêng tư, không bị ghi âm hoặc ghi hình mà không có sự đồng ý của các bên. Biên bản chỉ được lập để ghi nhận kết quả cuối cùng của quá trình, và nội dung ghi chép cũng phải được bảo mật. Những nguyên tắc này giúp tạo điều kiện thuận lợi cho các bên cảm thấy thoải mái và tự do khi tham gia, từ đó giúp Hòa giải viên dễ dàng hướng dẫn các bên đến thỏa thuận cuối cùng một cách hiệu quả.

Tóm lại, việc áp dụng hòa giải và đối thoại tại tòa án mang lại nhiều lợi ích cho cả các bên liên quan và hệ thống tư pháp. Chúng tôi hy vọng thông qua bài viết này quý độc giả sẽ có góc nhìn toàn diện, chính xác. Từ đó, lựa chọn được những phương pháp phù hợp với vụ việc của mình.

Trên đây là bài viết “Lợi ích của phương pháp hòa giải, đối thoại tại Tòa án” mà TNTP gửi đến bạn đọc. Trường hợp có nội dung cần trao đổi, vui lòng liên hệ với TNTP để được hỗ trợ.

Trân trọng.

Các bước soạn thảo hợp đồng

Khi soạn thảo hợp đồng, người soạn thảo không chỉ cần thể hiện một cách trọn vẹn những mong muốn của các bên mà còn phải dự liệu được việc thực hiện hợp đồng trên thực tế, những rủi ro có thể phát sinh nhằm hạn chế rủi ro và gia tăng lợi ích cho khách hàng. Trong nội dung bài trước, TNTP đã trình bày về bốn bước người soạn thảo có thể áp dụng: i) Tìm hiểu chi tiết về nội dung cần soạn thảo; ii) Xác định loại hợp đồng cần soạn thảo; iii) Xác định đối tượng của hợp đồng; iv) Phân tích pháp luật điều chỉnh hợp đồng. Trong bài viết này, TNTP sẽ tiếp tục trình bày những bước còn lại mà các bên có thể tham khảo để soạn thảo hợp đồng.

1. Xác định lợi ích trọng yếu

Mỗi chủ thể khi tham gia vào một giao dịch, một quan hệ hợp đồng đều hướng đến những lợi ích nhất định. Tùy thuộc vào vị trí của các bên trong quan hệ hợp đồng mà lợi ích hướng đến của các bên cũng khác nhau. Ngay từ bước đầu tiên, trong quá trình trao đổi thông tin với khách hàng, người soạn thảo phải tổng hợp được những lợi ích mà khách hàng hướng đến, xác định lợi ích trọng yếu, lợi ích thứ yếu và các cách thức để đảm bảo lợi ích được thực hiện. Hợp đồng cần bảo vệ được lợi ích trọng yếu, trong một số trường hợp, có thể chấp nhận từ bỏ một hoặc một số những lợi ích thứ yếu để đảm bảo nguyên tắc cân bằng lợi ích trong đàm phán và ký kết hợp đồng.

Ví dụ, trong hợp đồng mua bán, lợi ích trọng yếu của bên mua là hàng hóa phải đảm bảo số lượng, chủng loại, chất lượng đúng với yêu cầu của bên mua. Để đảm bảo lợi ích này, người soạn thảo nên quy định những nội dung sau trong hợp đồng: i) việc thanh toán được thực hiện sau khi nhận hàng; ii) việc đổi, trả hàng hóa trong trường hợp hàng hóa không đảm bảo chủng loại, chất lượng; iii) việc giao bù, bổ sung hàng hóa trong trường hợp hàng hóa không đảm bảo số lượng; iv) việc bảo hành hàng hóa; v) các chế tài đối với bên bán như bồi thường thiệt hại, phạt vi phạm nếu bên bán giao hàng hóa không đảm bảo số lượng, chủng loại, chất lượng;…

2. Xác định rủi ro

Trong quá trình soạn thảo, người soạn thảo cần nhận diện các rủi ro có thể phát sinh trong quá trình thực hiện và chấm dứt hợp đồng, liệt kê các rủi ro có thể xảy ra để dự liệu phương thức hạn chế rủi ro. Một số rủi ro có thể kể đến như chủ thể ký kết hợp đồng không đủ thẩm quyền; thay đổi về bối cảnh thực hiện hợp đồng, cơ sở pháp lý, môi trường kinh doanh; thay đổi về chủ thể có quyền/ nghĩa vụ trực tiếp, quyền/nghĩa vụ liên quan; một hoặc các bên vi phạm hợp đồng, đơn phương chấm dứt hợp đồng;…

Đối với từng loại hợp đồng, rủi ro thường đến từ những yếu tố khác nhau. Ví dụ, đối với hợp đồng mua bán hàng hóa, rủi ro có thể phát sinh bởi sự dịch chuyển hàng hóa qua các vùng/lãnh thổ, sự thay đổi về giá, bảo quản hàng hóa, bảo dưỡng, bảo hành,… Đối với hợp đồng liên doanh, hợp tác đầu tư, rủi ro thường phát sinh từ việc xác định phạm vi hợp tác, xác định sự đóng góp của các bên, xác định các giai đoạn của dự án, phương án đầu tư, dòng tiền và cơ cấu các giao dịch có liên quan, loại tài sản góp vốn, kết quả dự án, phân chia lợi nhuận và rủi ro trong kinh doanh,…

Khi dự phòng được các rủi ro, người soạn thảo cần quy định những nội dung để giảm thiểu, phòng tránh rủi ro trong hợp đồng. Ví dụ, đối với rủi ro về chủ thể ký kết, người soạn thảo cần phải kiểm tra kỹ lưỡng về thẩm quyền của chủ thể ký kết hợp đồng của các bên. Đối với rủi ro khi có sự kiện bất khả kháng hay hoàn cảnh thay đổi cơ bản, người soạn thảo có thể soạn thảo những nội dung này trong hợp đồng.

3. Soạn thảo hợp đồng

Sau khi hiểu yêu cầu của khách hàng, xác định được cấu trúc hợp đồng, người soạn thảo bắt đầu việc soạn thảo chi tiết từng điều khoản trong hợp đồng. Người soạn thảo nên phân nhóm các điều khoản thành i) các điều khoản chính – các điều khoản phản ánh nội dung chính, đặc thù của hợp đồng, ii) các điều khoản thông dụng – nội dung cần có trong phần lớn hợp đồng, iii) các điều khoản thường gặp khác – điều khoản thường có trong một số hợp đồng có mục đích loại trừ một số tình huống hiểu nhầm, làm phát sinh những tranh chấp không đáng có.

4. Rà soát lại ngôn ngữ và hoàn thiện hợp đồng

Sau khi hoàn thành việc soạn thảo hợp đồng, người soạn thảo nên đọc lại hợp đồng ít nhất hai lần. Đối với lần đọc thứ nhất, người soạn thảo cần đảm bảo hợp đồng phù hợp với mong muốn của khách hàng và quy định của pháp luật. Đối với lần đọc thứ hai, người soạn thảo có thể soát những lỗi hình thức như chính tả, dấu cách, ngắt đoạn, cách diễn đạt,… Sau khi hoàn thiện hợp đồng, người soạn thảo sẽ gửi cho khách hàng hợp đồng và chờ khách hàng cho ý kiến. Trường hợp khách hàng có yêu cầu điều chỉnh, người soạn thảo tiếp tục sửa đổi, bổ sung phù hợp với yêu cầu của khách hàng và quy định của pháp luật.

Trên đây là bài viết “Các bước soạn thảo hợp đồng”. Chúng tôi hi vọng bài viết sẽ có ích đối với các bạn.

Trân trọng,

Quy trình soạn thảo hợp đồng chuẩn

Hợp đồng là sự thỏa thuận giữa các bên về việc xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự. Hợp đồng bao gồm rất nhiều loại như hợp đồng mua bán tài sản, hợp đồng vay tài sản, hợp đồng hợp tác, hợp đồng dịch vụ, hợp đồng nhượng quyền thương mại,… Tùy thuộc vào mong muốn của các bên trong quan hệ hợp đồng, thông tin thực tế, loại hợp đồng dự định giao kết,… mà nội dung trong các hợp đồng sẽ khác nhau. Tuy nhiên, khi soạn thảo bất kỳ loại hợp đồng nào, người soạn thảo cần dựa trên quy trình nhất định để người soạn thảo lường trước được những rủi ro và không bỏ sót những nội dung cần có trong hợp đồng. Trong bài viết dưới đây, TNTP sẽ trình bày những nội dung cơ bản về quy trình soạn thảo hợp đồng mà các bên có thể tham khảo áp dụng.

1. Tìm hiểu chi tiết về nội dung cần soạn thảo

Một hợp đồng tốt là hợp đồng có thể triển khai trên thực tế. Do vậy, trước khi soạn thảo hợp đồng, việc đầu tiên người soạn thảo cần thực hiện là trao đổi để khai thác thông tin từ người đề xuất, người yêu cầu soạn thảo hoặc người trực tiếp đàm phán, ký kết, thực hiện hợp đồng, người hiểu rõ về nội dung cần soạn thảo (Gọi chung là “khách hàng”). Thông tin cần trao đổi bao gồm i) Thông tin về khách hàng và bên còn lại trong quan hệ hợp đồng; ii) Vị trí trong hợp đồng của khách hàng (bên bán hay bên mua; bên cung ứng dịch vụ hay bên sử dụng dịch vụ;…); iii) Mong muốn, mục đích của khách hàng về tổng thể của hợp đồng và những yêu cầu cụ thể trong từng điều khoản; iv) Các thông tin về đối tượng của hợp đồng; v) Quá trình triển khai hợp đồng trên thực tế;… Quá trình trao đổi thông tin này sẽ bắt đầu từ thời điểm người soạn thảo bắt đầu triển khai công việc và chỉ kết thúc khi khách hàng đồng ý với toàn bộ nội dung trong hợp đồng.

2. Xác định loại hợp đồng cần soạn thảo

Sau khi trao đổi và biết được các thông tin từ khách hàng, người soạn thảo sẽ xác định loại hợp đồng cần soạn thảo và đặc trưng của loại hợp đồng này. Việc xác định chính xác loại hợp đồng cần soạn thảo rất quan trọng, bởi lẽ mỗi loại hợp đồng có những đặc trưng riêng và có những điều khoản khác biệt. Khi xác định được loại hợp đồng cần soạn thảo, người soạn thảo sẽ xác định được khung hợp đồng cơ bản, những điều khoản bắt buộc, những điều khoản nên có, những điều khoản mấu chốt và ảnh hưởng chủ đạo đến toàn bộ hợp đồng, những rủi ro có thể gặp phải,…

3. Xác định đối tượng của hợp đồng

Đối tượng của hợp đồng là những gì các bên hướng tới để đạt được thông qua hợp đồng. Ví dụ, trong hợp đồng mua bán, đối tượng của hợp đồng là hàng hóa mà bên bán muốn bán và bên mua muốn mua; trong hợp đồng dịch vụ, đối tượng của hợp đồng là dịch vụ của bên cung ứng cho bên sử dụng dịch vụ. Nếu không xác định chính xác và đầy đủ về đối tượng của hợp đồng thì người soạn thảo khó có thể tạo lập được hợp đồng vì không thể xác định được quyền và nghĩa vụ của các bên trong quan hệ đó. Người soạn thảo phải ghi rõ đối tượng của hợp đồng để đảm bảo việc thực hiện hợp đồng theo đúng thỏa thuận. Cùng là hợp đồng mua bán nhưng loại hàng hóa khác nhau thì mối quan tâm của các bên trong hợp đồng mua bán cũng khác nhau, dẫn đến nội dung trong hợp đồng sẽ có sự khác biệt. Ví dụ, đối với loại hàng hóa là thực phẩm, bên mua thường sẽ quan tâm đến nguồn gốc, xuất xứ của hàng hóa; vệ sinh, an toàn của hàng hóa; cách thức bảo quản hàng hóa;… đối với loại hàng hóa là phần mềm, bên mua thường sẽ quan tâm đến yếu tố sở hữu trí tuệ, cách thức sử dụng, bảo mật thông tin,…

4. Phân tích pháp luật điều chỉnh hợp đồng

Sau khi xác định được loại hợp đồng và đối tượng của hợp đồng, người soạn thảo phải kiểm tra các quy định của pháp luật có liên quan. Việc tìm hiểu và phân tích các quy định pháp luật sẽ giúp người soạn thảo hiểu các vấn đề như: tính hiệu lực của hợp đồng, các quyền và nghĩa vụ của các bên trong quan hệ hợp đồng;… Người soạn thảo cần đối chiếu yêu cầu của khách hàng với quy định pháp luật để xác định yêu cầu này có phù hợp với quy định pháp luật hay không, từ đó điều chỉnh các yêu cầu này phù hợp với quy định pháp luật. Người soạn thảo cần lưu ý việc tuân thủ quy định pháp luật không đồng nghĩa với việc “copy” toàn bộ điều khoản trong luật vào hợp đồng. Người soạn thảo cần điều chỉnh quy định pháp luật để phù hợp với thực tế ký kết của các bên.

Trên đây là bài viết “Quy trình soạn thảo hợp đồng”. Chúng tôi hi vọng bài viết sẽ có ích đối với các bạn.

Trân trọng,

Án lệ số 33/2020/AL: Về trường hợp cá nhân được nhà nước giao đất nhưng không sử dụng mà để người khác quản lý, sử dụng ổn định, lâu dài

Đất đai là một trong những đối tượng tranh chấp phổ biến hiện nay. Trong số đó có tranh chấp về việc cá nhân được Nhà nước giao đất nhưng không sử dụng mà để người khác quản lý, sử dụng ổn định, lâu dài hiện vẫn đang diễn ra tại nhiều địa phương. Trong quá trình sử dụng đất, người được “nhờ” quản lý hoặc “mượn” đất đã tôn tạo đất, xây dựng nhà ở ổn định, đăng ký kê khai quyền sử dụng đất mà người được Nhà nước giao đất không biết hoặc không có ý kiến gì. Thông thường, những tranh chấp này bắt nguồn từ khoảng thời gian Nhà nước vẫn đang trong giai đoạn hoàn thiện pháp luật và thực hiện chính sách giao đất cho người dân để an cư, sinh sống ổn định vào những năm 1970. Vì vậy, Án lệ số 33/ được ban hành như một cách giải thích và áp dụng cho những tranh chấp tương tự xảy ra. Trong bài viết này, luật sư của TNTP sẽ bình luận và làm rõ hơn nội dung của Án lệ số 33/2020/AL này.

1. Tóm tắt sự việc

(a) Cụ Lê Ngọc U và cụ Bùi Thị T quê ở thôn Đ, xã Đ1, huyện P, tỉnh Hưng Yên. Cụ U và cụ T có một người con là ông Lê Ngọc H là chồng của bà Bùi Thị P. Năm 1973, cụ U về quê xin Ủy ban nhân dân xã Đ1 cấp cho 01 thửa đất ở diện tích 1.079m2 tại thôn Đ, xã Đ1, huyện P, tỉnh Hưng Yên.

(b) Năm 1976, ông H về quê xây một ngôi nhà ba gian mái bằng, một gian gác và toàn bộ công trình phụ gồm bếp, giếng, nhà tắm, nhà vệ sinh trên thửa đất trên để cho cụ U và cụ T khi đó đã nghỉ hưu về quê ở. Cụ U và cụ T ở tại nhà đất đó một thời gian thì chuyển vào trong làng tại nhà.

(c) Năm 1977, cụ Lê Ngọc C1 là em trai của cụ U mượn nhà, đất trên cho con trai là ông Lê Ngọc T2 ở nhờ.

(d) Ngày 22-01-1994, cụ T chết và ngày 20-12-1995 cụ U chết đều không để lại di chúc. Theo bà P trình bày thì trước lúc cụ T qua đời có giao cho bà P giữ tờ giấy xã giao đất cho cụ U ở thôn Đ năm 1973, nhưng năm 2008 xảy ra trận lũ lịch sử ở Lạng Sơn, nhà bà P bị ngập nước nên toàn bộ giấy tờ cá nhân đều bị hư hỏng hết.

(e) Năm 2008, ông Lê Ngọc T2 gặp ông H đề nghị viết giấy ủy quyền để ông T2 nhận tiền bồi thường do Nhà nước thu hồi đất để mở đường 38B. Tháng 6-2009, ông H chết không để lại di chúc nhưng có dặn lại mẹ con bà P về quê đòi lại nhà, đất cho ông T2 mượn.

(f) Bà P và các con là anh Lê Ngọc T1 và chị Lê Thị Thanh X khởi kiện yêu cầu gia đình ông T2 trả lại toàn bộ nhà, đất và 398.638.000 đồng tiền đền bù Khi Nhà nước thu hồi đất năm 2008.

(h) Tại Bản án dân sự sơ thẩm số 01/2015/DS-ST ngày 31-3-2015, Tòa án nhân dân huyện Phù Cừ đã quyết định:

• Giao cho ông Lê Ngọc T2 và bà V đang quản lý, sử dụng theo số liệu đo đạc thực tế ngày 08-8-2014 là 990m2; trong đó: đất ở là 816m2; đất ao là 174m2 (có sơ đồ kèm theo), ông Lê Ngọc T2 và bà Doãn Thị V có nghĩa vụ đăng ký quyền sử dụng đất được giao tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền, theo quy định của pháp luật đất đai.
• Nhà ở, các công trình xây dựng, cây cối, hoa màu nằm trên thửa đất là thuộc sở hữu của ông T2, bà V.
• Buộc ông Lê Ngọc T2 và bà Doãn Thị V phải thanh toán trả cho chị Lê Thị Thanh X và anh Lê Ngọc T1 giá trị di sản mà chị X và anh T1 được hưởng thừa kế của cụ Lê Ngọc U và cụ Bùi Thị T số tiền là 191.864.200 đồng (Một trăm chín mốt triệu tám trăm sáu mươi bốn nghìn hai trăm đồng).

(i) Ngày 15-4-2015, bị đơn ông Lê Ngọc T2 kháng cáo một phần bản án.

(j) Tại Bản án dân sự phúc thẩm số 25/2017/DS-PT ngày 28-9-2017 của Tòa án nhân dân tỉnh Hưng Yên quyết định: Sửa bản án dân sự sơ thẩm số 01/2015/DS-ST ngày 31-3-2015 của Tòa án nhân dân huyện Phù Cừ, tỉnh Hưng Yên như sau:

• Giao cho ông Lê Ngọc T2 và bà Doãn Thị V diện tích 621,2 m2 thửa đất số 117, tờ bản đồ số 15, bản đồ 299 lập năm 1981 thôn Đ, xã Đ1, huyện P đứng tên cụ Lê Ngọc U.
• Giao cho chị Lê Thị Thanh X, anh Lê Ngọc T1, bà Bùi Thị P (tên gọi khác: Bùi Thị Hương P) diện tích 369m2 (trong đó có 174,2m2 đất ao) tại thửa đất số 117, tờ bản đồ số 15, bản đồ 299 lập năm 1981 thôn Đ, xã Đ1, huyện P, đứng tên cụ Lê Ngọc U, cùng tài sản trên đất là 01 nhà xây cấp bốn lợp tôn, 01 kho lán, 01 chuồng chăn nuôi, tường bao phía tây trên diện tích đất được giao. Bà Bùi Thị P quản lý cả phần tài sản của chị Lê Thị Thanh X và anh Lê Ngọc T1 (việc giao đất, tài sản, kích thước có sơ đồ cụ thể kèm theo).
• Bà Bùi Thị P (tên gọi khác: Bùi Thị Hương P) phải thanh toán trả lại cho ông Lê Ngọc T2 và bà Doãn Thị V giá trị công trình trên đất được giao số tiền là 47.068.000 đồng (Bốn mươi bảy triệu không trăm sáu mươi tám nghìn đồng).
• Buộc ông Lê Ngọc T2 và bà Doãn Thị V phải thanh toán trả cho bà Bùi Thị P, chị Lê Thị Thanh X và anh Lê Ngọc T1 giá trị di sản mà bà P, chị X và anh T1 được hưởng thừa kế của cụ Lê Ngọc U và cụ Bùi Thị T số tiền là 199.319.000 đồng (Một trăm chín mươi chín triệu ba trăm mười chín nghìn đồng).

(k) Ngày 25-10-2017, ông Lê Ngọc T2 có đơn đề nghị xem xét theo thủ tục giám đốc thẩm đối với bản án dân sự phúc thẩm nêu trên.

2. Nhận định của Tòa án

• Căn cứ lời khai của các bên đương sự đều thừa nhận diện tích đất thuộc thửa số 31, tờ bản đồ số 269 tại thôn Đ, xã Đ1, huyện P, tỉnh Hưng Yên có nguồn gốc do Ủy ban nhân dân xã Đ1 cấp cho cụ Lê Ngọc U từ năm 1973. Thửa đất này hiện do ông Lê Ngọc T2 đang quản lý, sử dụng và ông T2 chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.

• Vợ chồng cụ U ở một thời gian ngắn tại ngôi nhà trên đất thì chuyển lên Lạng Sơn ở cùng với vợ chồng bà P, cho gia đình cụ C1 mượn nhà đất trên để cho ông T2 ở. Trong khi đó, ông T2 và cụ S (là vợ của cụ C1) không thừa nhận mượn nhà, đất của cụ U mà cho rằng do gia đình cụ C1 vì chưa đủ điều kiện cấp đất giãn dân nên nhờ cụ U đứng đơn xin cấp đất hộ cho gia đình cụ C1, cụ C1 là người trực tiếp nhận đất và cho vợ chồng ông T2 ở; đồng thời xuất trình xác nhận của những người nhận vượt đất, xây nhà và các công trình trên đất của ông T2 để chứng minh. Căn cứ vào bản xác nhận của những người làm chứng, biên bản thẩm định gạch nhà của ông T2 với gạch do bà P mang từ Lạng Sơn về để đối chiếu có cơ sở xác định nhà và các tài sản trên đất là của gia đình ông T2 tạo lập.

• Đối với diện tích đất tranh chấp: Bà P và ông T2 đều không đưa ra được các giấy tờ chứng minh quyền sử dụng hợp pháp đối với diện tích đất tranh chấp. Tuy nhiên, căn cứ vào lời khai của các bên đương sự, biên bản xác minh tại Ủy ban nhân dân xã Đ1, ông Tạ Quang H (là cán bộ địa chính Hợp tác xã Đ1 năm 1960-1978) có cơ sở xác định năm 1973 cụ Lê Ngọc U được Ủy ban nhân dân xã Đ1 cấp đất. Tại biên bản xác minh với cán bộ địa chính xã Đ1 thể hiện cụ U đứng tên chủ sử dụng thửa đất tranh chấp trên Bản đồ giải thửa năm 1981 và Sổ mục kê năm 1982, ông Lê Ngọc T2 đứng tên chủ sử dụng Bản đồ địa chính xã năm 1998 và sổ mục kê năm 1998. Thực tế gia đình cụ U và ông H không sinh sống tại đất này mà gia đình ông T2 quản lý, sử dụng từ năm 1975 đến nay và nộp thuế nhà đất. Ông Tạ Quang H là người giao đất cho cụ U cũng xác nhận cụ U không sử dụng mà do ông T2 sử dụng, sau đó một thời gian cụ U lại xin mảnh đất khác vì mảnh xin trước đây ông T2 đã sử dụng và Hợp tác xã lại cấp cho cụ U thửa đất thứ 2 (hiện ông B – em ông T2 đang sử dụng).

• Nội dung án lệ: Mặc dù cụ U là người được cấp đất, nhưng sau khi được cấp đất cụ U đã không sử dụng đất mà cho ông T2 sử dụng từ năm 1975 đến nay. Trong quá trình sử dụng đất, gia đinh cụ C1 và ông T2 đã phải thuê người vượt lấp để tôn nền, xây dựng và sửa chữa nhà nhiều lần, cụ U và ông H đều biết việc vượt lấp, sửa chữa và xây dựng nhà nhưng không có tranh chấp. Ủy ban nhân dân xã Đ1 và những người làm chứng là những người sống ở địa phương đều xác định cụ U và ông H không về ở, không xây dựng nhà. Sau khi vợ chồng cụ U chết, ông H cũng có bản cam kết xác nhận cụ U không về ở được nên giao lại quyền sử dụng thửa đất trên cho ông T2, gia đình không có ý kiến gì về thửa đất đó. Như vậy, cụ U là người được giao đất, nhưng cụ U không sử dụng mà cho ông T2 quản lý, sử dụng thửa đất này từ sau Khi cụ U được giao đất (năm 1974) đến nay.

Quá trình sử dụng đất, ông T2 đã xây dựng nhà ở ổn định, đăng ký kê khai và nộp thuế quyền sử dụng đối với thửa đất này nên theo quy định của pháp luật đất đai thì ông T2 thuộc trường hợp được xem xét cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Việc cụ U không sử dụng đất nhưng có tên trên Bản đồ giải thửa 299 và sổ mục kê năm 1982 là không chính xác và không phải là căn cứ để xác định cụ U là chủ sử dụng hợp pháp đối với thửa đất này. Tòa án cấp sơ thẩm và Tòa án cấp phúc thẩm chỉ căn cứ vào việc cụ U được cấp đất để xác định thửa đất tranh chấp là của vợ chồng cụ U để chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn và trích một phần công sức cho ông T2 là không đúng.

3. Bình luận Án lệ

• Tòa án đã căn cứ vào những chi tiết sau để đưa ra phán quyết:

(i) Sau khi được cho phép “mượn” đất, Bị đơn là ông T2 đã trực tiếp sử dụng đất và nhiều lần thuê người san lấp đất, xây dựng và sửa chữa nhà ở trên đất. Gia đình ông H biết toàn bộ quá trình này nhưng không có ý kiến gì về những việc làm của Bị đơn;
(ii) Ông T2 đã chủ động đăng ký, kê khai và thực hiện nghĩa vụ nộp thuế đất cho Nhà nước;
(iii) Ông H viết giấy cam kết có nội dung là giao lại quyền sử dụng thửa đất cho ông T2, gia đình ông H không có ý kiến gì về thửa đất đó;

Như vậy, Tòa án đã xem xét và cân nhắc dựa trên ý chí thực tế của mỗi bên mà không căn cứ hay phụ thuộc vào nguồn gốc đất được Nhà nước giao cho đối tượng nào hay bản đồ giải thửa, sổ mục kê thể hiện chủ sử dụng đất tại thời điểm đó. Án lệ đã cho thấy những giấy tờ này chỉ là hình thức giúp cung cấp và xác thực thông tin khi cần thiết và là công cụ giúp Nhà nước quản lý về đất đai. Do đó, những giấy tờ này không phải căn cứ chính xác để giải quyết trong khi chúng mâu thuẫn và sai lệch so với thực tế sử dụng đất.

• Đồng thời, Tòa án đã căn cứ vào Điều 236 Bộ luật Dân sự 2015 quy định về Xác lập quyền sở hữu theo thời hiệu do chiếm hữu, được lợi về tài sản không có căn cứ pháp luật, theo đó, Bị đơn đáp ứng đủ 04 điều kiện:

(i) Ngay tình;
(ii) Liên tục;
(iii) Công khai; và
(iv) Trong thời hạn 30 năm đối với bất động sản.

Do vậy, dù ông T2 không có căn cứ pháp luật về việc được giao đất hay là người có quyền sử dụng đất nhưng ông T2 đã chiếm hữu và sử dụng thửa đất một cách “ngay tình”. Ông T2 đã xây nhà và sinh sống ổn định (“liên tục”) từ khi “mượn” đất từ năm 1974 cho đến khi phát sinh tranh chấp (“thời hạn 30 năm”), có chính quyền địa phương và nhiều người làm chứng việc gia đình ông T2 sinh sống trên thửa đất (“công khai”). Phán quyết của Án lệ có đủ nền tảng pháp lý để khẳng định tư cách người chiếm hữu ngay tình của ông T2 và ông T2 thuộc trường hợp được xem xét cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.

Như vậy, có thể thấy Án lệ số 33/2020/AL đã giúp pháp luật về đất đai được hoàn thiện hơn và bảo vệ quyền lợi chính đáng của chủ sử dụng đất ngay tình khi chưa có căn cứ pháp luật về quyền sử dụng đất. Qua đó, chúng ta có thể thấy Án lệ đã bảo vệ và ưu tiên ý chí thực tế của các bên nhằm giải quyết những tranh chấp bắt nguồn từ thời điểm Nhà nước giao đất những năm 1970.

Trên đây là bài viết “Án lệ số 33/2020/AL về trường hợp cá nhân được nhà nước giao đất nhưng không sử dụng mà để người khác quản lý, sử dụng ổn định, lâu dài” của TNTP. Chúng tôi hy vọng bài viết sẽ giúp ích cho các bạn đọc.

Trân trọng,

Các căn cứ xác định Tòa án có thẩm quyền giải quyết tranh chấp trong kinh doanh thương mại

Trong môi trường kinh doanh thương mại, việc xảy ra các mâu thuẫn, tranh chấp là điều không thể tránh khỏi. Một trong những phương pháp giải quyết tranh chấp đó là thông qua tố tụng tại Tòa án. Vì vậy, việc xác định Tòa án có thẩm quyền giải quyết các tranh chấp đóng vai trò cực kỳ quan trọng. Dưới đây là một số căn cứ xác định Tòa án có thẩm quyền giải quyết tranh chấp trong kinh doanh thương mại

1. Xác định thẩm quyền giải quyết tranh chấp của Tòa án

• Thẩm quyền gắn liền với quyền và nhiệm vụ mà pháp luật quy định đối với cơ quan nhà nước, người nắm giữ những chức vụ lãnh đạo, quản lí trong các cơ quan đó để thực hiện chức năng và nhiệm vụ của họ. Thẩm quyền của Tòa án là quyền xem xét giải quyết vụ việc và quyền hạn ra các quyết định khi xem xét giải quyết các vụ việc đó theo thủ tục tố tụng của Tòa án.

• Căn cứ theo Khoản 1 Điều 30 Bộ luật tố tụng Dân sự năm 2015 quy định, những tranh chấp về kinh doanh, thương mại thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án.

• Nếu các bên thỏa thuận giải quyết tranh chấp tại Tòa án hoặc trong trường hợp trong hợp đồng cũng như các bên không có thoả thuận về cơ quan giải quyết tranh chấp thì tranh chấp được giải quyết tại Tòa án có thẩm quyền. Khi đó, thẩm quyền giải quyết tranh chấp của Tòa án được xác định như sau:

– Xác định thẩm quyền theo vụ việc: Thẩm quyền của Tòa án được xác định dựa trên vụ việc cụ thể. Theo Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, các tranh chấp kinh doanh, thương mại thuộc thẩm quyền của Tòa án.

– Xác định thẩm quyền của Tòa án theo cấp xét xử: Thẩm quyền của Tòa án cũng được xác định theo cấp xét xử. Tùy thuộc vào loại tranh chấp và địa điểm đăng ký cư trú hoặc trụ sở của các bên liên quan, Tòa án nhân dân cấp huyện hoặc cấp tỉnh có thẩm quyền giải quyết các tranh chấp hợp đồng thương mại.

– Xác định thẩm quyền của Tòa án theo lãnh thổ: Thẩm quyền của Tòa án có thể được xác định dựa trên nơi bị đơn cư trú, làm việc hoặc trụ sở của bị đơn. Trong trường hợp đơn vị bị đơn có nhiều địa điểm hoạt động, thì Tòa án nơi bị đơn cư trú, làm việc hoặc trụ sở cuối cùng sẽ có thẩm quyền.

– Xác định thẩm quyền của Tòa án theo sự lựa chọn của Nguyên đơn: Nguyên đơn có quyền lựa chọn Tòa án giải quyết tranh chấp hợp đồng dựa trên một số điều kiện cụ thể.

2. Xác định thẩm quyền của Tòa án trong trường hợp có thỏa thuận Trọng tài

Khi có yêu cầu Tòa án giải quyết tranh chấp về kinh doanh thương mại thì Tòa án sẽ xác định các bên có thoả thuận trọng tài hay không. Tòa án phải kiểm tra, xem xét các tài liệu gửi kèm theo đơn khởi kiện để xác định vụ tranh chấp đó không thuộc trường hợp có thoả thuận trọng tài.

Thông thường, khi các bên có thỏa thuận Trọng tài thì Trọng tài sẽ là cơ quan giải quyết trong trường hợp có tranh chấp phát sinh. Tuy nhiên, tranh chấp có thỏa thuận Trọng tài nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây thì thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án, trừ trường hợp các bên có thoả thuận khác hoặc pháp luật có quy định khác:

• Có quyết định của Tòa án hủy phán quyết trọng tài, hủy quyết định của Hội đồng trọng tài về việc công nhận sự thỏa thuận của các bên.

• Có quyết định đình chỉ giải quyết tranh chấp của Hội đồng trọng tài, Trung tâm trọng tài quy định tại khoản 1 Điều 43 các điểm a, b, d và đ khoản 1 Điều 59 Luật Trọng tài thương mại.

• Các bên đã có thỏa thuận giải quyết tranh chấp tại một Trung tâm trọng tài cụ thể nhưng Trung tâm trọng tài này đã chấm dứt hoạt động mà không có tổ chức trọng tài kế thừa, và các bên không thỏa thuận được việc lựa chọn Trung tâm trọng tài khác để giải quyết tranh chấp.

• Các bên đã có thỏa thuận cụ thể về việc lựa chọn Trọng tài viên trọng tài vụ việc, nhưng tại thời điểm xảy ra tranh chấp, vì sự kiện bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan mà Trọng tài viên không thể tham gia giải quyết tranh chấp, hoặc Trung tâm trọng tài, Tòa án không thể tìm được Trọng tài viên như các bên thỏa thuận và các bên không thỏa thuận được việc lựa chọn Trọng tài viên khác để thay thế.

• Các bên đã có thỏa thuận cụ thể về việc lựa chọn Trọng tài viên trọng tài vụ việc, nhưng tại thời điểm xảy ra tranh chấp, Trọng tài viên từ chối việc được chỉ định hoặc Trung tâm trọng tài từ chối việc chỉ định Trọng tài viên và các bên không thỏa thuận được việc lựa chọn Trọng tài viên khác để thay thế.

• Các bên có thỏa thuận giải quyết tranh chấp tại một Trung tâm trọng tài nhưng lại thỏa thuận áp dụng Quy tắc tố tụng của Trung tâm trọng tài khác với Quy tắc tố tụng trọng tài của Trung tâm trọng tài đã thỏa thuận và điều lệ của Trung tâm trọng tài do các bên lựa chọn để giải quyết tranh chấp không cho phép áp dụng Quy tắc tố tụng của Trung tâm trọng tài khác và các bên không thỏa thuận được về việc lựa chọn Quy tắc tố tụng trọng tài thay thế

• Nhà cung cấp hàng hóa, dịch vụ và người tiêu dùng có điều khoản về thỏa thuận trọng tài được ghi nhận trong các điều kiện chung về cung cấp hàng hoá, dịch vụ do nhà cung cấp soạn sẵn quy định tại Điều 17 Luật Trọng tài thương mại nhưng khi phát sinh tranh chấp, người tiêu dùng không đồng ý lựa chọn Trọng tài giải quyết tranh chấp.

Dù vậy, việc xem xét thỏa thuận trọng tài vô hiệu hay thỏa thuận trọng tài không thực hiện được là thẩm quyền của trọng tài. Cụ thể, trước khi xem xét nội dung vụ tranh chấp, Hội đồng trọng tài phải xem xét hiệu lực của thỏa thuận trọng tài; thỏa thuận trọng tài có thể thực hiện được hay không và xem xét thẩm quyền của mình. Trong trường hợp vụ việc thuộc thẩm quyền giải quyết của mình thì Hội đồng trọng tài tiến hành giải quyết tranh chấp theo quy định của Luật này. Trường hợp không thuộc thẩm quyền giải quyết của mình, thỏa thuận trọng tài vô hiệu hoặc xác định rõ thỏa thuận trọng tài không thể thực hiện được thì Hội đồng trọng tài quyết định đình chỉ việc giải quyết và thông báo cho các bên biết.

Căn cứ nội dung trên đây có thể xác định thẩm quyền của Tòa án giải quyết tranh chấp Hợp đồng thương mại trong một số trường hợp nhất định theo luật định.

Trên đây là những nội dung và chia sẻ pháp lý của TNTP về các căn cứ xác định Tòa án có thẩm quyền giải quyết tranh chấp trong kinh doanh thương mại. Chúng tôi hy vọng bài viết này có ích với bạn.

Trân trọng.

Những nội dung cần chú ý khi tiến hành tố tụng Trọng tài

Việc giải quyết tranh chấp tại Trọng tài dần được nhiều doanh nghiệp lựa chọn do các ưu điểm của phương thức này, đặc biệt giải quyết tại Trung tâm trọng tài. Quá trình tố tụng tại Trung tâm trọng tài có những điểm khác biệt so với quá trình tố tụng tại Tòa án. Trong bài viết này, TNTP sẽ phân tích những nội dung cần chú ý khi tiến hành tố tụng Trọng tài.

1. Hồ sơ khởi kiện

Trường hợp thỏa thuận trọng tài thể hiện rõ trung tâm trọng tài giải quyết vụ việc thì nguyên đơn sẽ gửi đơn khởi kiện đến Trung tâm trọng tài đó. Trường hợp các bên không thỏa thuận cụ thể về Trung tâm trọng tài có thẩm quyền giải quyết, các bên cần thỏa thuận Trung tâm trọng tài trong trường hợp này, nếu không thỏa thuận được thì việc lựa chọn tổ chức trọng tài để giải quyết tranh chấp được thực hiện theo yêu cầu của nguyên đơn.

Đơn khởi kiện sẽ bao gồm các nội dung sau:

• Ngày, tháng, năm của đơn khởi kiện;
• Thông tin các bên trong vụ tranh chấp (nguyên đơn, bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan). Ví dụ, đối với doanh nghiệp, các thông tin cần có bao gồm địa chỉ, người đại diện theo pháp luật hoặc người đại diện theo ủy quyền (trường hợp này phải có thông tin của Giấy ủy quyền hoặc Hợp đồng ủy quyền), mã số thuế, điện thoại, email như
• Tóm tắt nội dung vụ tranh chấp;
• Cơ sở khởi kiện (Ghi rõ nội qung thỏa thuận trọng tài);
• Các yêu cầu cụ thể của nguyên đơn và trị giá tranh chấp;
• Các vấn đề khác như tên, địa chỉ liên hệ của người được nguyên đơn chọn làm trọng tài viên hoặc đề nghị Trung tâm trọng tài chỉ định trọng tài viên; thông tin liên hệ của nguyên đơn;…

Ngoài Đơn khởi kiện, nguyên đơn cần chuẩn bị các tài liệu sau: Thỏa thuận trọng tài; bản chính hoặc bản sao có chứng thực của các tài liệu có liên quan đến tranh chấp như hợp đồng, thỏa thuận,… Đây là các tài liệu quan trọng để Trung tâm trọng tài có cơ sở xem xét yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.

2. Thời hiệu khởi kiện

Tương tự như quá trình tố tụng tại Tòa án, các bên cần lưu ý về thời hiệu khởi kiện. Căn cứ Điều 33 Luật Trọng tài thương mại 2010, trừ trường hợp luật chuyên ngành có quy định khác, thời hiệu khởi kiện theo thủ tục trọng tài là 02 năm, kể từ thời điểm quyền và lợi ích hợp pháp bị xâm phạm.

Doanh nghiệp cần lưu ý thời hiệu khởi kiện để đảm bảo quyền lợi của mình, vì trường hợp doanh nghiệp nộp đơn khởi kiện nằm ngoài thời hạn theo quy định của pháp luật, Trung tâm trọng tài có thể từ chối thụ lý giải quyết đơn khởi kiện.

3. Phí trọng tài

Một lưu ý cũng rất quan trọng khi tiến hành tố tụng trọng tài là phí trọng tài. Sau khi nhận được hồ sơ khởi kiện của nguyên đơn, Trung tâm trọng tài sẽ ban hành Thông báo về việc nộp phí trọng tài và gửi đến cho nguyên đơn. Phí trọng tài và thời hạn nộp phí trọng tài sẽ do Trung tâm trọng tài ấn định. Trong trường hợp Nguyên đơn không nộp đủ phí trọng tài trong thời hạn do Trung tâm ấn định thì được coi là rút Đơn khởi kiện.

Ngoài ra, phí Trọng tài thường cao hơn đáng kể so với án phí tại Tòa án. Do vậy, doanh nghiệp phải cân nhắc phí trọng tài trước khi quyết định khởi kiện, doanh nghiệp có thể yêu cầu Trung tâm Trọng tài được các bên lựa chọn cung cấp phí trọng tài dự kiến để cân nhắc, xem xét.

4. Thành lập Hội đồng trọng tài

Khác với quá trình tố tụng tại Tòa án, việc chỉ định Thẩm phán giải quyết vụ án thuộc về Chánh án Tòa án. Đối với thủ tục tố tụng trọng tài, nguyên đơn và bị đơn đều có quyền lựa chọn Trọng tài viên giải quyết tranh chấp theo mong muốn hoặc đề nghị Trung tâm trọng tài chỉ định Trọng tài viên. Nếu bị đơn không chọn Trọng tài viên hoặc không đề nghị Trung tâm trọng tài chỉ định Trọng tài viên, thì trong thời hạn quy định, Trung tâm trọng tài sẽ chỉ định Trọng tài viên cho bị đơn.

Ngoài ra, các bên có thể tự do thỏa thuận số lượng Trọng tài viên (đảm bảo là số lẻ). Trường hợp khi các bên không có thỏa thuận về số lượng Trọng tài viên thì Hội đồng Trọng tài sẽ gồm có ba trọng tài viên.

5. Hiệu lực của Phán quyết trọng tài và thi hành Phán quyết trọng tài

Căn cứ Khoản 10 Điều 3 Luật Trọng tài thương mại 2010, Phán quyết trọng tài là quyết định của Hội đồng Trọng tài giải quyết toàn bộ nội dung vụ tranh chấp và chấm dứt tố tụng Trọng tài. Ngoài ra, phán quyết trọng tài là chung thẩm và có hiệu lực kể từ ngày ban hành, điều này có nghĩa là tranh chấp đã được giải quyết bởi Trung tâm trọng tài sẽ không được xem xét lại bởi Tòa án, trừ trường hợp hủy phán quyết trọng tài theo quy định của pháp luật.

Chậm nhất là ba mươi (30) ngày kể từ ngày kết thúc phiên họp cuối cùng, Trung tâm trọng tài sẽ ban hành phán quyết trọng tài và gửi đến các bên ngay sau ngày ban hành. Phán quyết trọng tài là chung thẩm và có hiệu lực kể từ ngày ban hành. Hết thời hạn thi hành phán quyết trọng tài mà bên phải thi hành phán quyết không tự nguyện thi hành và cũng không yêu cầu huỷ phán quyết trọng tài, bên được thi hành phán quyết trọng tài có quyền làm đơn yêu cầu Cơ quan thi hành án dân sự có thẩm quyền thi hành phán quyết trọng tài.

Trên đây là bài viết của TNTP về chủ đề “Những nội dung cần chú ý khi tiến hành tố tụng Trọng tài”. Mong rằng bài viết trên đem lại giá trị cho các độc giả trong quá trình giải quyết tranh chấp.

Trân trọng,

Tranh chấp thương mại và các phương thức giải quyết tranh chấp điển hình

Tranh chấp thương mại là một hiện tượng phổ biến và thường xuyên diễn ra trong hoạt động của nền kinh tế thị trường. Do tính chất thường xuyên cũng như hậu quả của nó gây ra cho những chủ thể tham gia tranh chấp nói riêng và cho cả nền kinh tế nói chung, pháp luật Việt Nam đã sớm có những quan tâm nhất định đến hoạt động này thể hiện thông qua các chế định cụ thể. Trong bài viết sau đây, TNTP sẽ đưa ra góc nhìn khái quát về tranh chấp thương mại và các phương thức giải quyết tranh chấp điển hình.

I. Khái quát về Tranh chấp thương mại

Tranh chấp thương mại là những mâu thuẫn (bất đồng hay xung đột) về quyền và nghĩa vụ giữa các bên trong quá trình thực hiện các hợp đồng thương mại. Xuất phát từ định nghĩa trên, tranh chấp thương mại có đặc điểm:

● Thứ nhất, tranh chấp thương mại là những mâu thuẫn (bất đồng hay xung đột) về quyền và nghĩa vụ giữa các bên trong mối quan hệ cụ thể.
● Thứ hai, những mâu thuẫn (bất đồng hay xung đột) về quyền và nghĩa vụ giữa các bên phải phát sinh từ hoạt động thương mại.
● Thứ ba, tranh chấp thương mại chủ yếu là tranh chấp giữa các thương nhân.

II. Các phương thức giải quyết tranh chấp thương mại

Hiện nay, tranh chấp thương mại được giải quyết bằng các phương thức: thương lượng, hòa giải, tòa án và trọng tài thương mại. Mỗi phương thức có sự khác nhau về tính chết pháp lí, nội dung thủ tục, trình tự tiến hành. Các bên có quyền lựa chọn phương thức phù hợp, phụ thuộc vào lợi thế mà mỗi phương thức có thể mang lại, mức độ phù hợp của phương thức so với nội dung tính chất của tranh chấp và thiện chí của các bên.

● Thương lượng

✔ Thương lượng được hiểu là phương thức giải quyết tranh chấp thông qua việc các bên tự nguyện bàn bạc, thỏa thuận, tự dàn xếp, tháo gỡ những bất đồng phát sinh để loại bỏ tranh chấp mà không cần có sự trợ giúp hay phán quyết của bất kỳ bên thứ ba nào.
✔ Quá trình thương lượng giữa các bên không chịu sự ràng buộc của quy định pháp luật về trình tự, thủ tục giải quyết.
✔ Kết quả thương lượng hoàn toàn phụ thuộc vào sự tự nguyện của mỗi bên tranh chấp mà không có bất kỳ cơ chế pháp lý nào đảm bảo việc thực thi đối với thỏa thuận của các bên trong quá trình thương lượng.

● Hòa giải

✔ Hòa giải thương mại là phương thức giải quyết tranh chấp thương mại do các bên thỏa thuận và được hòa giải viên thương mại làm trung gian hòa giải hỗ trợ giải quyết tranh chấp theo quy định.
✔ Theo quy định tại Điều 6 Nghị định 22/2017/NĐ-CP, tranh chấp được giải quyết bằng hòa giải thương mại nếu các bên có thỏa thuận hòa giải. Các bên có thể thỏa thuận giải quyết tranh chấp bằng hòa giải trước, sau khi xảy ra tranh chấp hoặc tại bất cứ thời điểm nào của quá trình giải quyết tranh chấp.

● Tòa án

✔ Giải quyết tranh chấp thương mại tại Tòa án là phương thức giải quyết tranh chấp thương mại tại cơ quan xét xử nhân danh quyền lực nhà nước được tòa án thực hiện theo một trình tự, thủ tục nghiêm ngặt, chặt chẽ. Các phán quyết có hiệu lực của Tòa án được đảm bảo thi hành bằng sức mạnh cưỡng chế của Nhà nước.
✔ Tòa án chỉ có thể thụ lý những tranh chấp về kinh doanh, thương mại thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án, được quy định cụ thể tại Điều 30 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.
✔ Giải quyết tranh chấp thương mại bằng Tòa án được thực hiện thông qua mô hình hai cấp xét xử: cấp sơ thẩm và cấp phúc thẩm. Phán quyết của Tòa án có thể bị kháng cáo, kháng nghị theo quy định.

● Trọng tài thương mại

Trọng tài thương mại là phương thức giải quyết có tính chất tài phán phi chính phủ thông qua hoạt động của Trọng tài viên với tư cách là bên thứ ba độc lập nhằm chấm dứt các xung đột bằng việc đưa ra phán quyết trọng tài buộc các bên tôn trọng và thực hiện.
✔ Việc yêu cầu giải quyết tranh chấp của các bên phải được ghi nhận bằng thỏa thuận trọng tài, thỏa thuận trọng tài có thể được lập trước hoặc sau khi xảy ra tranh chấp.
✔ Các bên tranh chấp có thể thống nhất, thỏa thuận lựa chọn Trung tâm trọng tài, Trọng tài viên, địa điểm giải quyết hay luật áp dụng,…
✔ Phán quyết trọng tài là chung thẩm và có hiệu lực kể từ ngày ban hành, không bị kháng cáo, kháng nghị.
✔ Trọng tài là một cơ chế giải quyết tranh chấp có tính riêng biệt. Tính bí mật thể hiện rõ ở việc nội dung tranh chấp và danh tính của các bên được giữ kín, đáp ứng nhu cầu tin cậy trong quan hệ thương mại.

Trên đây là bài viết của TNTP về “Tranh chấp thương mại và các phương thức giải quyết tranh chấp điển hình”. Chúng tôi hi vọng bài viết này có ích với các bạn.

Trân trọng.

Tài trợ của bên thứ ba trong tố tụng trọng tài

Trọng tài đã và đang trở thành một trong những phương thức giải quyết tranh chấp phổ biến nhất trong lĩnh vực kinh doanh, thương mại. Tuy nhiên, vấn đề về chi phí khi tham gia tố tụng trọng tài là rào cản lớn ngăn cản các bên lựa chọn phương thức giải quyết tranh chấp này. Trong bài viết này, TNTP sẽ giới thiệu tới bạn đọc hình thức tài trợ của bên thứ ba trong tố tụng trọng tài, một phương thức ngày càng trở nên phổ biến trên thế giới nhưng vẫn còn khá mới mẻ tại Việt Nam.

1. Khái niệm và đặc điểm về Tài trợ của Bên thứ ba

Tài trợ của bên thứ ba là một khái niệm chỉ hoạt động một bên thứ ba không phải là các bên tranh chấp, không có mối liên hệ pháp lý giữa các bên và không liên quan đến vụ tranh chấp, thường là các tổ chức tài chính, hỗ trợ các khoản chi phí pháp lý của một bên trong tranh chấp trọng tài như phí luật sư, chuyên gia, cố vấn và bất cứ chi phí nào liên quan hoặc cần thiết trong quá trình giải quyết tranh chấp, thường dưới dạng một thỏa thuận. Bên tài trợ sẽ được một tỷ lệ phần trăm hoặc một khoản tiền cố định nếu phán quyết trọng tài có quyết định có lợi về mặt kinh tế cho bên được tài trợ, hoặc đạt được thỏa thuận hòa giải có lợi cho bên được tài trợ. Ngược lại, trong trường hợp bên được tài trợ thua kiện, tùy thuộc vào thỏa thuận của các bên mà bên tài trợ phải chi trả các khoản tiền là các nghĩa vụ kinh tế mà bên được tài trợ phải chi trả theo phán quyết trọng tài như nghĩa vụ đối với bên thắng kiện, các chi phí luật sư, chi phí khác…

Tài trợ của Bên thứ ba có những đặc điểm điển hình như sau:

• Về bên sử dụng dịch vụ: Bên sử dụng dịch vụ thường là các nguyên đơn trong vụ tranh chấp. Các bị đơn cũng có thể sử dụng dịch vụ tài trợ trong một số tình huống mà bị đơn gặp khó khăn về tài chính hoặc khi bị đơn nộp đơn phản tố.

• Về các tổ chức tài trợ: Công ty bảo hiểm, nhà tài trợ tổ chức hoặc các tổ chức tài chính khác như tập đoàn, ngân hàng, quỹ phòng hộ là những bên tài trợ phổ biến nhất. Họ sẽ có vai trò như một người cung cấp khả năng tài chính, không được can thiệp vào quá trình giải quyết tranh chấp của bên được tài trợ.

• Các chi phí được tài trợ bao gồm các khoản chi phí pháp lý của một bên như phí luật sư, chuyên gia, cố vấn và bất cứ chi phí nào liên quan hoặc cần thiết trong quá trình giải quyết vụ việc.

• Tài trợ của bên thứ ba thường phổ biến trong những tranh chấp thương mại có giá trị lớn, đặc biệt là những tranh chấp đầu tư giữa quốc gia và nhà đầu tư được giải quyết thông qua cơ chế của Trung tâm quốc tế về giải quyết tranh chấp đầu tư (viết tắt là ICSID) hoặc theo cơ chế trọng tài vụ việc theo Hiệp định bảo hộ đầu tư.

2. Vai trò của tài trợ của bên thứ ba trong tố tụng trọng tài

Tài trợ của bên thứ ba có thể là một phương thức hữu hiệu cho các bên trong quá trình giải quyết tranh chấp với những tác dụng mà nó mang lại, cụ thể:

• Sự tài trợ của bên thứ ba cho phép bên có tiềm lực tài chính yếu hơn có cơ hội bảo vệ quyền và lợi ích của mình khi tham gia tố tụng trọng tài. Bên yếu thế về mặt tài chính có thể bị lấn át bởi bên có tiềm lực tài chính mạnh hơn và trong một số trường hợp, họ buộc phải chấp nhận một yêu cầu bồi thường từ bên còn lại với mức bồi thường thấp hơn thiệt hại thực tế do chi phí của việc giải quyết tranh chấp bằng trọng tài vượt quá khả năng tài chính của bên yếu thế. Thông qua sự hỗ trợ về tài chính của bên thứ ba, bên được tài trợ hoàn toàn có thể xóa bỏ sự lấn áp của bên còn lại, dẫn đến quá trình giải quyết được diễn ra một cách khách quan hơn.

• Việc tài trợ này cũng giúp các bên có thể ổn định về mặt tài chính khi tham gia tố tụng trọng tài, tránh tình huống phải phá sản chỉ vì theo đuổi vụ kiện. Hơn nữa, do trong thỏa thuận tài trợ, trường hợp Hội đồng trọng tài tuyên phán quyết không có lợi về mặt kinh tế cho bên được tài trợ, tùy thuộc vào thỏa thuận của các bên, bên tài trợ có trách nhiệm chi trả các chi phí, nghĩa vụ kinh tế trong phán quyết, từ đó làm giảm gánh nặng tài chính của bên được tài trợ.

• Tài trợ của bên thứ ba cũng có thể được coi là một phương thức để đánh giá tính khả thi trước khi tiến hành các chiến lược tiếp theo. Khi nhận được yêu cầu tài trợ, bên thứ ba phải tiến hành đánh giá, phân tích vụ việc, khả năng thắng kiện và khả năng thu hồi được các khoản tiền trong trường hợp phán quyết có lợi cho bên được tài trợ. Hơn nữa, do việc đánh giá vụ việc trên diễn ra từ một bên thứ ba khách quan nên đây cũng là một nguồn thông tin có giá trị cho các bên trước khi quyết định có tiếp tục tham gia giải quyết, sử dụng tài trợ hoặc không tiếp tục việc khởi kiện.

3. Những nội dung cần lưu ý của phương thức tài trợ của bên thứ ba

Ngoài những điểm tích cực mà tài trợ của bên thứ ba mang lại trong quá trình tố tụng trọng tài, phương thức này cũng tiềm ẩn một số rủi ro như sau:

• Đối với những yêu cầu về khía cạnh kinh tế trong phán quyết trọng tài, các nhà tài trợ sẽ được hưởng một phần đáng kể số tiền bên được tài trợ được nhận. Tuy nhiên, những nhà tài trợ luôn có những phương án để phòng ngừa rủi ro với khoản đầu tư của họ trong những trường hợp phán quyết không có lợi cho bên được tài trợ. Do vậy, nếu phán quyết trọng tài không có lợi về mặt kinh tế cho bên được tài trợ, một số thỏa thuận nhất định có thể áp đặt thêm những khoản tiền để bồi hoàn cho bên tài trợ, làm gia tăng nghĩa vụ tài chính của bên được tài trợ.

• Mặc dù các nhà tài trợ không được can thiệp vào quá trình giải quyết tranh chấp nhưng họ hoàn toàn có thể yêu cầu bên được tài trợ yêu cầu thỏa thuận bồi thường có giá trị lớn hơn vì họ quan tâm đến lợi nhuận của mình nhiều hơn là kết quả của vụ việc. Cách tiếp cận như vậy đôi khi có thể mâu thuẫn với lợi ích của bên được tài trợ, dẫn đến việc các bên trong vụ việc không thể giải quyết được tranh chấp qua con đường thương lượng, hòa giải.

Có thể thấy, tài trợ của bên thứ ba trong tố tụng trọng tài là một mô hình tài trợ có nhiều cơ hội để phát triển, nhất là trong bối cảnh ngày càng nhiều tranh chấp đã và đang được giải quyết thông qua cơ chế trọng tài. Tuy nhiên, hình thức này vẫn còn rất mới mẻ tại Việt Nam khi không có quy định cụ thể điều chỉnh vấn đề này. Khi sử dụng phương thức này, ngoài những lợi ích mà phương thức này đem lại, các bên cũng nên cân nhắc đến các yếu tố khác cũng như những rủi ro có thể xảy ra.

Trên đây là bài viết “Tài trợ của bên thứ ba trong tố tụng trọng tài” mà TNTP gửi đến bạn đọc. Trường hợp có nội dung cần trao đổi, vui lòng liên hệ với TNTP để được hỗ trợ.

Trân trọng.

Ngân hàng có được quyền thu giữ tài sản mà không cần có sự đồng ý của Bên thế chấp tài sản?

Trong hoạt động tín dụng của các tổ chức tín dụng nói chung và ngân hàng nói riêng, để đảm bảo nghĩa vụ thanh toán của bên vay với ngân hàng, các ngân hàng thường tiến hành các biện pháp đảm bảo thực hiện nghĩa vụ của bên vay, một tronh những biện pháp phổ biến nhất là thế chấp tài sản. Tuy nhiên, ngân hàng có được quyền thu giữ tài sản bảo đảm mà không cần có sự đồng ý của Bên thế chấp tài sản hay không? Trong bài viết sau, luật sư của TNTP sẽ đưa ra quan điểm về vấn đề này.

1. Thế chấp tài sản là gì

• Theo quy định tại Điều 317 Bộ luật Dân sự 2015, Thế chấp tài sản là việc một bên (sau đây gọi là bên thế chấp) dùng tài sản thuộc sở hữu của mình để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ và không giao tài sản cho bên kia (sau đây gọi là bên nhận thế chấp). Ngoài ra các bên có thể thỏa thuận giao tài sản thế chấp cho người thứ ba giữ.

Như vậy, việc thế chấp tài sản đối với hoạt động cho vay của ngân hàng nhằm mục đích đảm bảo nghĩa vụ thanh toán của bên vay tiền. Khi đó, bên vay vẫn có quyền sở hữu với tài sản, được sử dụng tài sản và khai thác giá trị của tài sản thế chấp nếu các bên có thỏa thuận, tuy nhiên tài sản này phải được đăng ký biện pháp bảo đảm và không được phép chuyển nhượng cho bất cứ bên nào khác khi vẫn đang bị thế chấp.

2. Đăng ký tài sản thế chấp

• Theo quy định tại Điều 292 Bộ luật Dân sự 2015 về các biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ, thế chấp tài sản là một trong các biện pháp đảm bảo thực hiện nghĩa vụ trong quan hệ dân sự giữa các bên.

• Đồng thời áp dụng Điều 298 Bộ luật Dân sự 2015 về đăng ký biện pháp bảo đảm, theo đó việc thế chấp tài sản phải được đăng ký theo đúng quy định của pháp luật tại các cơ quan có thẩm quyền.

Như vậy, việc thế chấp tài sản đối với hoạt động cho vay của ngân hàng cũng sẽ phải được đăng ký tài sản bảo đảm tại các cơ quan có thẩm quyền để đảm bảo tính hợp pháp.

3. Quyền thu giữ tài sản bảo đảm của Ngân hàng

• Do tải sản bảo đảm vẫn thuộc quyền sở hữu của bên bảo đảm nên việc thu giữ các tài sản này phải tuân thủ các điều kiện mà các bên đã thỏa thuận, cũng như quy định của pháp luật.

Theo quy định tại Điều 299 Bộ luật Dân sự 2015, các trường hợp được xử lý tài sản bảo đảm bao gồm:

– Đến hạn thực hiện nghĩa vụ được bảo đảm mà bên có nghĩa vụ không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ.
– Bên có nghĩa vụ phải thực hiện nghĩa vụ được bảo đảm trước thời hạn do vi phạm nghĩa vụ theo thỏa thuận hoặc theo quy định của luật.
– Trường hợp khác do các bên thỏa thuận hoặc luật có quy định.

Như vậy, trong trường hợp bên vay không thực hiện đúng nghĩa vụ thanh toán, hoặc giữa bên vay và ngân hàng có thỏa thuận về trường hợp khác được phép xử lý tài sản thế chấp, thì tài sản bảo đảm của bên vay sẽ được xử lý theo quy định của pháp luật.

• Đồng thời áp dụng quy định tại Điều 303 Bộ luật Dân sự 2015, theo đó Bên bảo đảm và bên nhận bảo đảm có quyền thỏa thuận một trong các phương thức xử lý tài sản cầm cố, thế chấp sau đây:

a) Bán đấu giá tài sản;
b) Bên nhận bảo đảm tự bán tài sản;
c) Bên nhận bảo đảm nhận chính tài sản để thay thế cho việc thực hiện nghĩa vụ của bên bảo đảm;
d) Phương thức khác.

Trường hợp không có thỏa thuận về phương thức xử lý tài sản bảo đảm theo quy định tại thì tài sản được bán đấu giá, trừ trường hợp luật có quy định khác.

Như vậy, có thể thấy một trong những phương thức xử lý tài sản cầm cố, thế chấp là việc bên nhận bảo đảm nhận chính tài sản để thay thế cho việc thực hiện nghĩa vụ của bên bảo đảm. Nói cách khác, ngân hàng có quyền thu giữ tài sản đảm bảo để thay thế cho việc thực hiện nghĩa vụ của bên thế chấp.

4. Ngân hàng có được quyền tiến hành thu giữ tài sản mà không cần có sự đồng ý của Bên thế chấp không?

• Áp dụng quy định tại Khoản 2 Điều 7 Nghị quyết 42/2017/QH14 về thí điểm xử lý nợ xấu của tổ chức tín dụng, theo đó các tổ chức tín dụng được thu giữ tài sản đảm bảo mà không cần sự đồng ý của bên thế chấp khi đáp ứng đủ 05 điều kiện sau:

– Khi xảy ra một trong các trường hợp xử lý tài sản bảo đảm theo quy định tại Điều 299 Bộ luật Dân sự.

– Tại hợp đồng bảo đảm có thỏa thuận về việc bên bảo đảm đồng ý cho TCTD có quyền thu giữ tài sản bảo đảm của khoản nợ xấu khi xảy ra trường hợp xử lý tài sản bảo đảm theo quy định của pháp luật.

– Giao dịch bảo đảm hoặc biện pháp bảo đảm đã được đăng ký theo đúng quy định của pháp luật.

– Tài sản bảo đảm không phải là tài sản tranh chấp trong vụ án đã được thụ lý nhưng chưa được giải quyết hoặc đang được giải quyết tại tòa án có thẩm quyền; không đang bị tòa án áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời; không đang bị kê biên hoặc áp dụng biện pháp bảo đảm thi hành án theo quy định của pháp luật.

– TCTD đã hoàn thành nghĩa vụ công khai thông tin theo quy định.

Do đó, có thể thấy nhiều tổ chức tín dụng đã áp dụng quy định trên để tiến hành thu giữ tài sản đảm bảo khi có đủ 05 điều kiện tại Nghị quyết 42/2017 mà không cần sự đồng ý của bên thế chấp tài sản. Tuy nhiên, Nghị quyết 42/2017 đã hết hiệu lực kể từ ngày 01/01/2024, do đó đến thời điểm hiện tại, theo quy định của pháp luật thì các tổ chức tín dụng không thể tiến hành thu giữ tài sản bảo đảm khi không có sự đồng thuận của bên thế chấp tài sản.

• Tuy nhiên, áp dụng quy định tại Điều 301 Bộ luật Dân sự 2015, theo đó trường hợp người đang giữ tài sản không giao tài sản thì bên nhận bảo đảm có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết, trừ trường hợp luật liên quan có quy định khác.

Như vậy, trong trường hợp bên thế chấp tài sản bảo đảm không giao tài sản thì ngân hàng có quyền yêu cầu Tòa án có thẩm quyền giải quyết. Phải thông qua quá trình tố tụng mới có thể tiến hành hoạt động thu giữ tài sản thế chấp. Việc này đảm bảo quyền lợi của bên vay và đảm bảo không trao quá nhiều quyền cho ngân hàng được đơn phương tiến hành các hoạt động thu giữ tài sản.

Do bản chất của tài sản đảm bảo tuy đã bị thế chấp tại ngân hàng nhưng quyền sở hữu vẫn thuộc về bên thế chấp. Việc ngân hàng được tự ý tiến hành thu giữ tài sản thế chấp mà không cần thông qua ý kiến của bên thế chấp có thể xâm phạm đến quyền lợi của bên thế chấp trong khi họ vẫn đang có quyền sở hữu tài sản này. Do đó, TNTP cho rằng theo quy định của pháp luật tại thời điểm hiện tại, Ngân hàng tuy có quyền thu giữ tài sản nhưng không có quyền thực thi quyền thu giữ tài sản mà không cần có sự đồng ý của Bên thế chấp, việc thu giữ tài sản sẽ được giải quyết theo thủ tục tố tụng để đảm bảo quyền lợi của các bên trong giao dịch bảo đảm.

Trên đây là bài viết của luật sư TNTP về chủ đề: “Ngân hàng có được quyền thu giữ tài sản mà không cần có sự đồng ý của Bên thế chấp tài sản?”. Mong rằng bài viết này đem lại giá trị cho các độc giả.

Trân trọng,

Công ty Luật TNHH Quốc Tế TNTP và Các Cộng Sự

  • Văn phòng tại Hồ Chí Minh:
    Phòng 1901, Tầng 19 Tòa nhà Saigon Trade Center, 37 Tôn Đức Thắng, Phường Bến Nghé, Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh
  • Văn phòng tại Hà Nội:
    Số 2, Ngõ 308 Tây Sơn, Phường Thịnh Quang, Quận Đống Đa, Hà Nội
  • Email: ha.nguyen@tntplaw.com


    Bản quyền thuộc về: Công ty Luật TNHH Quốc Tế TNTP và Các Cộng Sự