Skip to main content

Author: Phạm Huyền

Nguyên nhân nào dẫn đến tranh chấp và công nợ trong hoạt động của doanh nghiệp?

Phát sinh tranh chấp và công nợ là một trong những vấn đề không tránh khỏi trong quá trình hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Thay vì chủ động hạn chế rủi ro qua hệ thống hỗ trợ pháp lý từ khi thành lập, nhiều doanh nghiệp chỉ tìm đến sự hỗ trợ từ các văn phòng luật sư khi xảy ra tranh chấp hoặc công nợ khó đòi.

Từ năm 2019 đến nay, do dịch bệnh Covid-19 kéo dài, diễn biến phức tạp đã tác động nghiêm trọng đến hoạt động sản xuất, kinh doanh của hầu hết doanh nghiệp ở các lĩnh vực. Các công ty hầu như bị hạn chế tiếp cận thị trường, khách hàng, chuỗi cung ứng bị gián đoạn, nhiều lao động phải nghỉ việc dẫn đến doanh thu giảm mạnh. Nhiều công ty, tập đoàn trong nước lâm vào tình trạng phá sản và giải thể do doanh thu không đáp ứng được hoạt động kinh doanh trong lĩnh vực của mình. Do đó, có thể thấy dịch bệnh Covid-19 cũng là một trong những nguyên nhân chính dẫn đến tình trạng phát sinh công nợ khó đòi và xảy ra tranh chấp trong thời gian qua.

Đồng thời, trong thời kỳ hội nhập quốc tế như hiện nay, Việt Nam đã ký kết nhiều Hiệp ước thương mại và tham gia các tổ chức kinh tế quốc tế, dẫn đến việc pháp luật về kinh doanh ngày càng trở lên phức tạp. Do đó, nhiều doanh nghiệp không hiểu rõ về pháp lý bị rơi vào trạng thái bị động, lúng túng, không xử lý kịp thời dẫn đến việc phát sinh tranh chấp và công nợ.

Một điều dễ nhận thấy nhất là doanh nghiệp không lường trước được những rủi ro có thể xảy ra khi giao kết hợp đồng và không đảm bảo được quyền và lợi ích hợp pháp của mình khi tham gia giao kết hợp đồng. Từ đó, khi không hiểu rõ được quy định của luật pháp dẫn đến việc phát sinh tranh chấp, công nợ, ảnh hưởng không nhỏ đến hoạt động kinh doanh của cả bộ máy.

Nguyên nhân tiếp theo dẫn đến tình trạng ngày càng nhiều tranh chấp, công nợ phát sinh trong quá trình hoạt động kinh doanh là do thói quen không tuân thủ quy ước giữa hai bên của nhiều công ty. Trong quá trình hoạt động kinh doanh và giao kết hợp đồng có nhiều doanh nghiệp hiểu và có kiến thức về pháp luật, tuy nhiên, một số trường hợp vì lợi ích kinh tế đã có những hành vi làm trái pháp luật dẫn đến việc tranh chấp phát sinh.

Thực tế cho thấy, hiện nay vẫn còn nhiều doanh nghiệp chưa nhận thấy được vai trò quan trọng của các văn phòng luật sư trong quá trình hoạt động nên thiếu sự quan tâm đầu tư. Ngay trong quá trình dự toán chi phí kinh doanh, doanh nghiệp cũng không có dự trù tài chính cho việc  pháp luật.

Bên cạnh đó, đối với các công ty vừa và nhỏ thì chi phí thuê một văn phòng luật sư hoặc luật sư để tư vấn trong quá trình hoạt động kinh doanh cũng là một vấn đề cần phải cân nhắc. Nhiều doanh nghiệp có tâm lý sợ chi phí cao và chất lượng tư vấn của các văn phòng luật sư còn hạn chế.

Khi phát sinh tranh chấp giữa các doanh nghiệp đòi hỏi cần phải được giải quyết một cách minh bạch và hiệu quả. Bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của các chủ thể, góp phần ngăn chặn sự vi phạm pháp luật trong hoạt động của các doanh nghiệp, bảo đảm trật tự pháp luật, kỷ cương . Trong đó, sự hiểu biết về pháp luật đối với việc xảy ra tranh chấp và phát sinh công nợ là cơ sở để các văn phòng luật sư tư vấn hỗ trợ công ty về pháp lý trong hoạt động kinh doanh, bảo đảm môi trường pháp lý rõ ràng cho chủ thể tham gia các mối quan hệ kinh tế với nhau.

Như vậy, có thể nhận thấy trong thời gian vừa qua, đặc biệt là trong thời kì đại dịch Covid–19 vẫn đang diễn biến phức tạp tại Việt Nam, tình trạng ngày càng xảy ra nhiều tranh chấp, công nợ phát sinh trong quá trình hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Do đó, các công ty cần lưu ý, tìm hiểu rõ các quy định của pháp luật trước khi tiến hành giao kết hợp đồng, những rủi ro có thể xảy ra nhằm đảm bảo tối đa quyền và lợi ích của mình. Ngoài ra, các doanh nghiệp có thể lựa chọn phương án hỗ trợ, tư vấn từ các văn phòng luật sư trong quá trình kinh doanh của mình để đạt được hiệu quả cao.

Nhằm nâng cao tính cấp thiết của các văn phòng luật sư hiện nay đối với các doanh nghiệp trong việc hỗ trợ giải quyết tranh chấp và thu hồi công nợ, chuyên trang Diễn đàn Pháp luật – Tạp chí Đời sống & Pháp luật sẽ tiếp tục thông tin tới bạn đọc trong bài tiếp theo. Luật sư Nguyễn Thanh Hà, giám đốc Công ty luật TNHH quốc tế TNTP và các cộng sự sẽ cùng đồng hành và chia sẻ về vấn đề này.

Minh Nhật – Phapluatnet

Các trường hợp chấm dứt hợp đồng thường gặp

Hiện nay, mỗi doanh nghiệp đều ý thức được tầm quan trọng của việc soạn thảo, giao kết, thực hiện Hợp đồng, đặc biệt là các Hợp đồng thương mại. Việc soạn thảo Hợp đồng chặt chẽ, thực hiện và chấm dứt Hợp đồng đúng quy định của pháp luật và đúng thỏa thuận trong Hợp đồng sẽ góp phần hạn chế các tranh chấp phát sinh từ Hợp đồng. Trong bài viết này, chúng tôi sẽ phân tích một số trường hợp chấm dứt Hợp đồng để doanh nghiệp lưu ý và thực hiện đúng theo quy định của pháp luật.

1. Khái niệm Hợp đồng, chấm dứt Hợp đồng

Hợp đồng là sự thỏa thuận giữa các bên về việc xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự.

Chấm dứt Hợp đồng có thể hiểu là việc kết thúc, ngừng việc thực hiện các thỏa thuận mà các bên đã đạt được khi giao kết Hợp đồng. Bên có nghĩa vụ không có trách nhiệm tiếp tục thực hiện nghĩa vụ và bên có quyền không thể buộc bên có nghĩa vụ tiếp tục thực hiện nghĩa vụ. Tùy từng trường hợp chấm dứt Hợp đồng, mỗi bên có thể phải chịu các hậu quả pháp lý khác nhau như phạt vi phạm, bồi thường thiệt hại cho bên bị thiệt hại,…

2. Các trường hợp chấm dứt Hợp đồng

Hợp đồng sẽ chấm dứt khi thuộc một trong những trường hợp sau đây:

(i) Chấm dứt Hợp đồng do Hợp đồng đã được hoàn thành

Đây là trường hợp phổ biến dẫn đến chấm dứt Hợp đồng và cũng là mong muốn của các bên khi tiến hành giao kết Hợp đồng. Hợp đồng được coi là hoàn thành khi các bên đã hoàn thành đúng và đầy đủ nghĩa vụ theo Hợp đồng. Thực hiện đúng và đầy đủ nghĩa vụ được hiểu là thực hiện chính xác toàn bộ thỏa thuận về đối tượng trong Hợp đồng (thực hiện đúng phạm vi công việc, giao hàng hóa đúng số lượng, chủng loại, chất lượng,…)

Đối với Hợp đồng mà một bên chỉ có quyền, một bên chỉ có nghĩa vụ (Hợp đồng đơn vụ) thì Hợp đồng sẽ hoàn thành khi bên có nghĩa vụ hoàn thành xong nghĩa vụ của mình. Đối với Hợp đồng mà các bên đều có quyền và nghĩa vụ với nhau (Hợp đồng song vụ) thì Hợp đồng sẽ hoàn thành khi tất cả các bên đều đã hoàn thành đúng và đầy đủ nghĩa vụ của mình với bên kia. Nếu chỉ một bên hoàn thành đầy đủ nghĩa vụ của mình mà bên còn lại chưa thực hiện hoặc thực hiện không đúng, không đủ nghĩa vụ thì Hợp đồng không được coi là hoàn thành.

(ii) Chấm dứt Hợp đồng theo thỏa thuận của các bên

Về bản chất, Hợp đồng là sự thỏa thuận của các bên. Do vậy, các bên có thể thỏa thuận không tiếp tục thực hiện Hợp đồng trong thời hạn thực hiện Hợp đồng, thỏa thuận chấp nhận thanh lý Hợp đồng khi đến hạn thực hiện Hợp đồng dù bên có nghĩa vụ chưa thực hiện xong toàn bộ nghĩa vụ, thỏa thuận bù trừ nghĩa vụ, thỏa thuận thay thế nghĩa vụ. Các bên cần phải thỏa thuận xử lý các hậu quả sau khi chấm dứt Hợp đồng. Tuy nhiên, thỏa thuận chấm dứt Hợp đồng sẽ bị coi là vi phạm pháp luật nếu thỏa thuận này nhằm trốn tránh thực hiện nghĩa vụ với bên thứ ba.

(iii) Chấm dứt Hợp đồng khi cá nhân giao kết Hợp đồng chết, pháp nhân hoặc chủ thể khác chấm dứt mà Hợp đồng phải do chính cá nhân, pháp nhân hoặc chủ thể đó thực hiện

Cá nhân giao kết Hợp đồng chết, pháp nhân giao kết Hợp đồng chấm dứt tồn tại dẫn đến chấm dứt Hợp đồng nếu đáp ứng đủ hai điều kiện sau: Hợp đồng phải do chính cá nhân, pháp nhân đó thực hiện; Hợp đồng có thể do cá nhân, pháp nhân khác thực hiện nhưng việc thực hiện không thể chuyển giao cho chủ thể khác (do không có ai thay thế hoặc thừa kế tiếp tục thực hiện Hợp đồng).

Trường hợp Hợp đồng có nhiều người cùng thực hiện hoặc nhiều pháp nhân phải thực hiện thì Hợp đồng vẫn có giá trị với những chủ thể còn lại nếu một cá nhân chết/ một pháp nhân chấm dứt hoạt động.

(iv) Chấm dứt khi bị hủy bỏ, đơn phương chấm dứt Hợp đồng

Mặc dù việc hủy bỏ Hợp đồng và đơn phương chấm dứt thực hiện Hợp đồng đều làm cho Hợp đồng chấm dứt, nhưng xét bản chất, hai trường hợp này sẽ dẫn đến những hậu quả pháp lý khác nhau. Khi Hợp đồng bị hủy bỏ thì Hợp đồng không có giá trị từ thời điểm giao kết, tức là coi như chưa có Hợp đồng phát sinh trên thực tế. Hậu quả pháp lý của Hợp đồng bị hủy bỏ được giải quyết giống như Hợp đồng bị tuyên bố vô hiệu. Khi Hợp đồng bị đơn phương chấm dứt thực hiện thì Hợp đồng chỉ không có giá trị đối với phần Hợp đồng chưa được thực hiện, phần Hợp đồng đã được thực hiện vẫn có giá trị pháp lý.

(v) Chấm dứt Hợp đồng khi không thể thực hiện được do đối tượng của Hợp đồng không còn và các bên có thể thỏa thuận hay thay thế đối tượng khác hoặc bồi thường thiệt hại

Đối tượng của Hợp đồng là nội dung bắt buộc phải có trong Hợp đồng. Khi đối tượng của Hợp đồng không còn, mục đích giao kết Hợp đồng của các bên không đạt được. Do vậy, các bên không thể tiếp tục thực hiện Hợp đồng và Hợp đồng sẽ chấm dứt, tuy nhiên điều này không đồng nghĩa với việc chấm dứt quyền và nghĩa vụ của các chủ thể tham gia quan hệ Hợp đồng. Trường hợp đối tượng không còn thì các bên có thể thỏa thuận để thay thế đối tượng của Hợp đồng bằng cách chấm dứt Hợp đồng cũ và giao kết Hợp đồng mới hoặc bồi thường thiệt hại.

(vi) Chấm dứt Hợp đồng khi hoàn cảnh thay đổi cơ bản

Hoàn cảnh thay đổi cơ bản khi có đủ các điều kiện sau đây:

  • Sự thay đổi hoàn cảnh do nguyên nhân khách quan xảy ra sau khi giao kết hợp đồng;
  • Tại thời điểm giao kết hợp đồng, các bên không thể lường trước được về sự thay đổi hoàn cảnh;
  • Hoàn cảnh thay đổi lớn đến mức nếu như các bên biết trước thì hợp đồng đã không được giao kết hoặc được giao kết nhưng với nội dung hoàn toàn khác;
  • Việc tiếp tục thực hiện hợp đồng mà không có sự thay đổi nội dung hợp đồng sẽ gây thiệt hại nghiêm trọng cho một bên;
  • Bên có lợi ích bị ảnh hưởng đã áp dụng mọi biện pháp cần thiết trong khả năng cho phép, phù hợp với tính chất của hợp đồng mà không thể ngăn chặn, giảm thiểu mức độ ảnh hưởng đến lợi ích.

Khi hoàn cảnh thay đổi cơ bản, hợp đồng chấm dứt khi có các điều kiện:

  • Ít nhất một bên bị ảnh hưởng đến lợi ích khi hoàn cảnh thay đổi cơ bản;
  • Các bên không thỏa thuận được việc sửa đổi Hợp đồng trong thời hạn hợp lý;
  • Có yêu cầu Tòa án tuyên bố chấm dứt Hợp đồng của một trong các bên.

Trên đây là các trường hợp chấm dứt Hợp đồng theo quy định của pháp luật. Để đảm bảo trong việc chấm dứt Hợp đồng, doanh nghiệp nên cần nhắc và lưu ý về các trường hợp này, để tránh phát sinh tranh chấp trong quá trình hoạt động kinh doanh của mình.

Có thể bạn chưa đọc Hợp đồng nguyên tắc trong kinh doanh thương mại

Doanh nghiệp Luật TNHH Quốc tế TNTP và Các Cộng sự

Luật sư: Nguyễn Thanh Hà

Email: ha.nguyen@tntplaw.com

Thỏa thuận không cạnh tranh – Hiểu thế nào để thực hiện đúng luật?

Nhiều doanh nghiệp đã yêu cầu người lao động (“NLĐ”) phải ký Thỏa thuận không cạnh tranh (“Non-compete agreement – NCA”) đồng thời với ký kết Hợp đồng lao động. Tuy nhiên, do pháp luật Việt Nam chưa có quy định điều chỉnh nên còn tồn tại nhiều quan điểm khác nhau về NCA. Bài viết dưới đây sẽ cung cấp một số ý kiến về NCA để doanh nghiệp cùng NLĐ có thể hiểu và sử dụng thỏa thuận này đúng quy định của pháp luật.

 1. Định nghĩa Thỏa thuận không cạnh tranh

Để phục vụ cho hoạt động kinh doanh, doanh nghiệp phải đầu tư nhiều chi phí và nhân lực để thu thập, phát triển, bảo mật các thông tin như kiến thức, bí quyết công nghệ, chiến lược kinh doanh, danh sách khách hàng,… (gọi chung là thông tin mật). Tùy theo vị trí công việc mà NLĐ đảm nhận mà họ có thể biết những loại thông tin mật nhất định. Họ có thể sử dụng những thông tin mật này để thu lợi bằng các hình thức như tiết lộ thông tin mật cho đối thủ cạnh tranh của doanh nghiệp, thành lập hoặc làm việc cho các doanh nghiệp kinh doanh cùng ngành nghề với chính doanh nghiệp mà NLĐ từng làm việc.

Do đó, để bảo vệ thông tin mật, lợi thế kinh doanh và ngăn chặn những hành vi gây thiệt hại cho doanh nghiệp mà đa phần doanh nghiệp yêu cầu NLĐ phải ký NCA trước khi làm việc tại doanh nghiệp. Theo đó, NLĐ cam kết không thành lập, không làm việc cho các doanh nghiệp kinh doanh cùng ngành nghề với chính doanh nghiệp mà NLĐ từng làm việc, trong thời gian thực hiện quan hệ lao động hoặc sau khi chấm dứt quan hệ lao động.

2. Giá trị pháp lý của Thỏa thuận không cạnh tranh

Xét ở khía cạnh pháp luật lao động, NCA đã hạn chế quyền làm việc của NLĐ, vi phạm nguyên tắc “tự do lao động”. Tại Hiến pháp năm 2013, Khoản 1 Điều 35 quy định “Công dân có quyền làm việc, lựa chọn nghề nghiệp, việc làm và nơi làm việc”. Tại Bộ luật Lao động năm 2019, Khoản 1 Điều 5 quy định về quyền của NLĐ là được “làm việc; tự do lựa chọn việc làm, nơi làm việc, nghề nghiệp”; Khoản 1 Điều 10 quy định quyền “được làm việc cho bất kỳ người sử dụng lao động nào và ở bất kỳ nơi nào mà pháp luật không cấm” của NLĐ và Khoản 1 Điều Điều 19 cho phép “Người lao động có thể giao kết nhiều hợp đồng lao động với nhiều người sử dụng lao động, nhưng phải bảo đảm thực hiện đầy đủ các nội dung đã giao kết”. Tại Luật việc làm năm 2013, Khoản 1 Điều 4 quy định tại nguyên tắc về việc làm: “Bảo đảm quyền làm việc, tự do lựa chọn việc làm và nơi làm việc” và Khoản 6 Điều 9 quy định cấm các hành vi “Cản trở, gây khó khăn hoặc làm thiệt hại đến quyền và lợi ích hợp pháp của người lao động”.

Trường hợp NCA được đưa vào hợp đồng lao động (dưới dạng một điều khoản hoặc một phụ lục của hợp đồng lao động) thì NCA đã vi phạm nguyên tắc giao kết hợp đồng lao động quy định tại Khoản 2 Điều 15 Bộ luật Lao động năm 2019, “Tự do giao kết hợp đồng lao động nhưng không được trái pháp luật, thỏa ước lao động tập thể và đạo đức xã hội”. Nếu NCA không được đưa vào hợp đồng lao động hay phụ lục hợp đồng mà được ký kết thành văn bản riêng, độc lập với hợp đồng lao động thì có được coi là thỏa thuận dân sự không? Để trả lời được câu hỏi này, chúng ta cần xét về bản chất của NCA. NCA xuất phát từ mối quan hệ lao động, chỉ khi phát sinh quan hệ lao động thì NLĐ mới được tiếp cận với các thông tin mật của doanh nghiệp, từ đó doanh nghiệp mới có nhu cầu ký kết NCA với NLĐ để bảo vệ lợi thế cạnh tranh của doanh nghiệp. Trường hợp NLĐ ký NCA mà không nhận được bất kỳ lợi ích gì để bù đắp cho phần nghĩa vụ phát sinh từ NCA trong và sau thời gian làm việc cho doanh nghiệp thì tính phụ thuộc của NCA vào quan hệ lao động được thể hiện rõ. Do vậy, NCA không được coi là quan hệ pháp luật dân sự mà được coi là quan hệ pháp luật lao động, được điều chỉnh bởi pháp luật lao động, có khả năng cao bị Tòa án tuyên là vô hiệu do vi phạm điều cấm của luật.

Trong Bản án số 420/2019/LĐ-PT ngày 15/5/2019, TAND thành phố Hồ Chí Minh căn cứ vào “quyền làm việc, tự do lựa chọn việc làm, nơi làm việc, nghề nghiệp” để quyết định “Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Doanh nghiệp U về việc buộc ông Phan Thanh B không được tiếp tục làm việc cho Doanh nghiệp P là đối thủ cạnh tranh trực tiếp của Doanh nghiệp U”. Trái ngược với quan điểm này, ngày 12/6/2018, TAND thành phố Hồ Chí Minh đã ra Quyết định số 755/2018/QĐ-PQTT công nhận hiệu lực của quyết định của Hội đồng trọng tài thuộc Trung tâm Trọng tài quốc tế Việt Nam (VIAC). Tòa án nhận định rằng NLĐ đã từ bỏ quyền của mình bằng sự tự nguyện giao kết NCA nên NLĐ phải tuân thủ thỏa thuận. Có thể thấy Bản án số 420/2019/LĐ-PT và Quyết định số 755/2018/QĐ-PQTT cùng được TAND thành phố Hồ Chí Minh ban hành, tuy nhiên Tòa án lại đưa ra hai quan điểm khác nhau về cùng một vấn đề là xác định tính hợp pháp của NCA. Như vậy, việc xác định hiệu lực của NCA sẽ phụ thuộc hoàn toàn vào niềm tin nội tâm và các quan điểm pháp lý của từng thẩm phán khi giải quyết tranh chấp.

3. Làm cách nào để bảo vệ bí mật thông tin của doanh nghiệp hợp pháp?

Vì mục đích của Thỏa thuận bảo mật thông tin (“Non-Disclosure Agreement – NDA”) hay NCA đều nhằm ngăn cản những hành vi tiết lộ thông tin mật và gây thiệt hại cho doanh nghiệp, nên thay vì ký kết NCA thì doanh nghiệp có thể lựa chọn ký kết NDA. Đây là giải pháp an toàn cho doanh nghiệp bởi Khoản 2 Điều 21 Bộ luật Lao động năm 2019 đã quy định “Khi người lao động làm việc có liên quan trực tiếp đến bí mật kinh doanh, bí mật công nghệ theo quy định của pháp luật thì người sử dụng lao động có quyền thỏa thuận bằng văn bản với NLĐ về nội dung, thời hạn bảo vệ bí mật kinh doanh, bảo vệ bí mật công nghệ, quyền lợi và việc bồi thường trong trường hợp vi phạm.” NDA tối thiểu phải bao gồm những nội dung sau: i) Danh mục bí mật kinh doanh, bí mật công nghệ; ii) Phạm vi sử dụng bí mật kinh doanh, bí mật công nghệ; iii) Thời hạn bảo vệ bí mật kinh doanh, bí mật công nghệ; iv) Phương thức bảo vệ bí mật kinh doanh, bí mật công nghệ; v) Quyền, nghĩa vụ, trách nhiệm của NLĐ, người sử dụng lao động trong thời hạn bảo vệ bí mật kinh doanh, bí mật công nghệ; vi) Xử lý vi phạm thỏa thuận bảo vệ bí mật kinh doanh, bí mật công nghệ.

Trường hợp doanh nghiệp vẫn muốn ký kết NCA, doanh nghiệp nên lưu ý những nội dung sau để thỏa thuận này có khả năng được Tòa án chấp nhận, cụ thể:

Thứ nhất, doanh nghiệp nên quy định NCA trong văn bản độc lập với hợp đồng lao động, nói cách khác là không quy định NCA là điều khoản trong hợp đồng lao động hay phụ lục hợp đồng lao động. Bởi vì nếu đưa NCA vào hợp đồng lao động, Tòa án có khả năng cao là sẽ xem xét NCA dưới góc độ pháp luật lao động thay vì là thỏa thuận dân sự dưới góc độ pháp luật dân sự.

Thứ hai, doanh nghiệp nên quy định thời hạn hiệu lực và phạm vi áp dụng của NCA ở mức độ hợp lý.

Thứ ba, doanh nghiệp nên quy định NLĐ sẽ được nhận một khoản tiền hoặc lợi ích khi thực hiện NCA. Điều này khẳng định ý chí tự nguyện của NLĐ khi đồng ý nhận khoản đền bù để từ bỏ quyền của mình thay vì bị doanh nghiệp ép buộc ký kết NCA.

Thứ tư, doanh nghiệp không nên quy định cấm hoàn toàn NLĐ không được làm việc cho bên thứ ba. Vì quyền tự do làm việc là quyến hiến định của con người nên việc doanh nghiệp cấm NLĐ làm việc cho bên thứ ba là vi phạm pháp luật. Thay vào đó, doanh nghiệp có thể quy định hậu quả pháp lý mà NLĐ phải gánh chịu khi vi phạm các thỏa thuận trong NCA. Như vậy, doanh nghiệp vừa có thể yêu cầu NLĐ chịu các khoản phạt hay bồi thường, vừa khẳng định NCA là thỏa thuận dân sự.

Trên đây là bài viết về “Thỏa thuận không cạnh tranh – Hiểu thế nào để thực hiện đúng luật?” TNTP muốn gửi đến độc giả. Hy vọng bài viết này sẽ giúp ích cho các bạn.

Có thể bạn chưa đọc Các vấn đề cần lưu ý khi ký kết Hợp đồng lao động

Doanh nghiệp Luật TNHH Quốc tế TNTP và Các Cộng sự

Luật sư: Nguyễn Thanh Hà

Email: ha.nguyen@tntplaw.com

Tội phạm tham nhũng trong doanh nghiệp và khu vực ngoài nhà nước

Khi nhắc đến tham nhũng, nhiều người sẽ nghĩ rằng tham nhũng chỉ xảy ra trong khu vực nhà nước. Tuy nhiên, trên thực tế, tham nhũng có thể xảy ra cả ở trong các doanh nghiệp tư nhân và khu vực ngoài nhà nước. Tham nhũng trở thành nguyên nhân cản trở sự phát triển và tạo ra các thách thức đối với các doanh nghiệp, có tác động lớn đến sự phát triển kinh tế – xã hội của đất nước. Vậy tội phạm tham nhũng trong doanh nghiệp và khu vực ngoài nhà nước được hiểu như thế nào, TNTP sẽ phân tích cụ thể tại bài viết dưới đây.

1. Khái niệm về tham nhũng trong doanh nghiệp tư và khu vực ngoài nhà nước (trong khu vực tư)

Các tổ chức thuộc khu vực ngoài nhà nước có thể hiểu là các tổ chức xã hội, các đơn vị sự nghiệp ngoài công lập, các công ty và doanh nghiệp do tư nhân đầu tư, quản lý và điều hành. Sau đây được gọi tắt là Các tổ chức/doanh nghiệp trong khu vực tư.

Tham nhũng là các hành vi được thực hiện trong khu vực ngoài nhà nước (khu vực tư) do người có chức vụ, quyền hạn trong các tổ chức/doanh nghiệp trong khu vực tư thực hiện bao gồm: (i) Tham ô tài sản; (ii) Nhận hối lộ; (iii) Đưa hối lộ, môi giới hối lộ để giải quyết công việc của doanh nghiệp, tổ chức mình vì vụ lợi.

Đặc điểm của tham nhũng trong các tổ chức/doanh nghiệp trong khu vực tư là người có chức vụ, quyền hạn trong doanh nghiệp, tổ chức này đã lợi dụng chức vụ, quyền hạn và nhiệm vụ được giao của mình để vụ lợi cá nhân, làm thiệt hại và đe dọa đến quyền, lợi ích của doanh nghiệp, tổ chức của mình.

2. Tham nhũng trong các tổ chức/doanh nghiệp trong khu vực tư thường được thực hiện bằng cách nào?

Tham nhũng trong khu vực tư có thể tồn tại trong nhiều lĩnh vực và được thực hiện bằng các hành vi khác nhau nhưng thường tập trung chủ yếu ở một số lĩnh vực sau:

  • Quản lý kinh tế – tài chính: Những người có chức vụ, quyền hạn trong doanh nghiệp tư như Giám đốc, Kế toán, Thủ kho, Thủ quỹ,… đều có thể tham nhũng bằng việc gian lận trong việc kê khai chi phí tiêu hao vật tư và thu mua nguyên liệu đầu vào; lập chứng từ kê khai hàng hóa với giá cao hơn khi mua nguyên liệu để “ăn” phần giá chênh lệch; đòi hoa hồng; nhận hối lộ để giải quyết công việc của doanh nghiệp;…
  • Đầu tư: Đây là lĩnh vực mà tham nhũng trong khu vực tư xảy ra phổ biến, gây hậu quả nghiêm trọng cho doanh nghiệp bởi trong lĩnh vực này, tham nhũng có thể xảy ra ở mọi công đoạn từ lúc bắt đầu lập dự án, thiết kế,… cho đến khi nghiệm thu công trình và quyết toán. Các hành vi tham nhũng có thể là thay thế các nguyên vật liệu xây dựng chất lượng tốt và đắt tiền bằng các nguyên vật liệu chất lượng kém và giá thành rẻ hơn để xây dựng công trình, gian lận số liệu đo đạc, “ăn bớt” công đoạn thi công, không thực hiện đúng quy trình thi công, …
  • Giáo dục: Không chỉ ở các cơ sở giáo dục công lập mà tại các cơ sở giáo dục tư nhân, vấn đề gây bức xúc luôn tồn tại là giáo dục đang dần đang bị thương mại hóa. Nhà trường đặt ra các khoản thu bất hợp lý và bắt buộc phụ huynh phải đóng cho con em mình, các giáo viên nhận tiền, quà biếu từ học sinh để chạy điểm nâng thành tích,…

Có thể thấy các hành vi tham nhũng trong khu vực tư sẽ gây ra hệ lụy nghiêm trọng, không chỉ đối với hoạt động kinh doanh của tổ chức, doanh nghiệp tư nhân nói riêng mà còn ảnh hưởng đến sự ổn định kinh tế của xã hội nói chung. Do vậy, Nhà nước đã điều chỉnh, bổ sung các quy định truy cứu trách nhiệm hình sự đối với các hành vi tham nhũng trong khu vực tư để nghiêm khắc, răn đe và ngăn chặn hành vi này có thể tiếp diễn.

3. Thực hiện hành vi tham nhũng trong khu vực tư có bị truy cứu trách nhiệm hình sự không?

Trước đây, Bộ luật Hình sự 1999 chỉ quy định về tội phạm tham nhũng trong phạm vi nhà nước do các cán bộ, công chức, viên chức thuộc các tổ chức, doanh nghiệp nhà nước thực hiện. Tuy nhiên, hành vi tham nhũng có thể được thực hiện bởi bất kỳ cá nhân nào có chức vụ, quyền hạn trong tổ chức hoặc doanh nghiệp nhà nước hay tư nhân. Do đó, pháp luật về hình sự đã có sự sửa đổi để mở rộng phạm vi truy cứu trách nhiệm hình sự đối với các hành vi tham nhũng được thực hiện trong khu vực tư.

Bộ luật Hình sự 2015 đã quy định tội phạm tham nhũng đối với 02 tội danh là Tội tham ô tài sản và Tội nhận hối lộ tài sản. Điểm chung của 02 tội danh này là hành vi thực hiện tội danh đều được thực hiện bởi những cá nhân có chức vụ, quyền hạn và họ lợi dụng chính chức vụ, quyền hạn của mình để chiếm đoạt tài sản của tổ chức/doanh nghiệp của mình, sách nhiễu, dùng thủ đoạn xảo quyệt để bắt buộc người hoặc tổ chức khác hối lộ cho mình.

Như vậy, vấn đề tham nhũng trong các tổ chức/doanh nghiệp trong khu vực tư cần được phòng chống, kiểm soát nghiêm túc. Nhà nước cần liên tục cập nhật, sửa đổi, bổ sung các quy định pháp luật hình sự nhằm góp phần hoàn thiện khung pháp lý đối với tội phạm tham nhũng để hạn chế tối đa các hành vi tham nhũng ở Việt Nam.

Trên đây là bài viết về “Tội phạm tham nhũng trong doanh nghiệp và khu vực ngoài nhà nước” TNTP muốn gửi đến độc giả. Hy vọng bài viết này sẽ giúp ích cho các bạn.

Có thể bạn chưa đọc Nhân viên chiếm đoạt tiền của công ty – Có phải tội phạm?

Công ty Luật TNHH Quốc tế TNTP và Các Cộng sự

Luật sư: Nguyễn Thanh Hà

Email: ha.nguyen@tntplaw.com

 

Hướng dẫn kiểm tra tình trạng pháp lý bất động sản

Trước khi đưa ra quyết định mua bất động sản, người mua cân nhắc đến nhiều yếu tố như: tiền bạc, diện tích, nơi tọa lạc của bất động sản,…Tuy nhiên, không ít người quên một vấn đề vô cùng quan trọng đó là kiểm tra tình trạng pháp lý của bất động sản. Việc kiểm tra pháp lý của bất động sản sẽ giúp người mua tránh mua phải đất tranh chấp, trong diện quy hoạch hay đã bị đem thế chấp để vay tiền. Bài viết này, TNTP sẽ hướng dẫn những cách giúp người mua kiểm tra tình trạng pháp lý bất động sản trước khi quyết định giao dịch.

1. Người mua cần kiểm tra bản chính giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và các tài sản khác gắn liền với đất (nếu có).

 Khi giao dịch mua bán đất động sản, giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (“GCNQSDĐ”) sẽ giúp nhà đất có giá cao hơn, giúp người mua yên tâm khi giao dịch. Nhưng bên bán có GCNQSDĐ chưa đủ để chứng minh tình trạng pháp lý nhà đất an toàn vì thủ đoạn làm giả giấy tờ rất tinh vi, cần có kiến thức và thiết bị giám định chuyên nghiệp thì mới phát hiện được. Vì vậy, người mua nên nhờ các công chứng viên kiểm tra.

Lưu ý rằng, người mua không bao giờ chấp nhận cọc tiền đặt cọc khi chỉ thấy GCNQSDĐ công chứng sao y bản chính. Nhiều khả năng bất động sản đó đang bị thế chấp ở ngân hàng hoặc một nơi nào khác nên người bán không giữ GCNQSDĐ bản chính.

2. Người mua bất động sản tìm hiểu thông tin đất có trong diện quy hoạch hay không?

Việc quy hoạch đất ở mỗi địa phương không giống nhau và cũng có thể thay đổi qua từng khoảng thời gian, quy hoạch này có thể đã được công khai hoặc chưa được công khai, nên người mua có thể tìm hiểu bằng các phương thức khác nhau:

  • Kiểm tra quy hoạch dựa trên GCNQSDĐ. Trong trường hợp đất đã có GCNQSDĐ thì thông thường thông tin quy hoạch sẽ được ghi trực tiếp ở trên GCNQSDĐ. Thông tin về việc quy hoạch sẽ nằm trong phần ghi chú, trong đó cũng chỉ rõ lô đất này đang trong diện quy hoạch gì.
  • Kiểm tra trên cổng thông tin điện tử chính thức của UBND cấp huyện.
  • Tìm hiểu quy hoạch đất tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Cơ quan nhà nước có thẩm quyền ở địa phương biết được thông tin về các kế hoạch, quy hoạch sử dụng đất là Văn phòng đăng ký đất đai ở địa phương (hoặc Phòng Tài nguyên và Môi trường cấp huyện).

3.Kiểm tra thông tin bất động sản về tranh chấp

Theo Khoản 1 Điều 188 Luật đất đai 2013 quy định, người sử dụng đất được thực hiện các quyền chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê, cho thuê lại, thừa kế, tặng cho, thế chấp quyền sử dụng đất, góp vốn bằng quyền sử dụng đất khi có đủ 4 điều kiện, trong đó điều kiện thứ 2 là đất không có tranh chấp. Điều này có nghĩa là nếu đất thuộc diện tranh chấp thì người sử dụng đất sẽ không có được các quyền nói trên.

Để kiểm tra đất có tranh chấp hay không thì người mua có thể sử dụng những cách như sau:

  • Liên hệ với Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn nơi có đất hoặc liên hệ trực tiếp công chức địa chính xã, phường, thị trấn nơi có đất để hỏi xem có ai đang gửi đơn giải quyết tranh chấp hay không hoặc tranh chấp đất thực tế (tranh chấp nhưng chưa gửi đơn).
  • Xin thông tin đất đai tại Văn phòng/Chi nhánh văn phòng đăng ký đất đai nơi có thửa đất. (Biểu mẫu đơn quy định tại điều 11 và điều 12 Thông tư 34/2014/TT-BTNMT quy định hồ sơ, thủ tục xin thông tin đất đai).
  • Hỏi những người dân xung quanh hoặc người sử dụng đất liền kề.
  • Liên hệ với cơ quan thi hành án dân sự để tìm hiểu xem thửa đất có liên quan đến việc thi hành bản án giải quyết tranh chấp đất đai hay không.

4. Kiểm tra thông tin nhà đất đang có vay nợ, thế chấp không?

Về nguyên tắc khi chủ sở hữu thế chấp tài sản của mình thì sẽ không được bán cho người khác trong thời gian thế chấp. Tuy nhiên, trường hợp bên nhận thế chấp đồng ý thì chủ sở hữu sẽ được thực hiện quyền chuyển nhượng (tài sản bảo đảm là quyền sử dụng đất).

Đối với các trường hợp cần kiểm tra để xem đất có đang bị thế chấp hay không thì có thể thực hiện các việc sau:

  • Kiểm tra thông tin trên GCNQSDĐ, đối với bất động sản đang thế chấp ngân hàng hợp pháp, bên nhận thế chấp giữ bản chính có dấu của cơ quan thẩm quyền và dòng chữ : “Đã thế chấp quyền sử dụng đất cho ngân hàng… theo hợp đồng số…” mặt số ba hay số bốn của Giấy chứng nhận. Nếu người bán muốn giấu thông tin thì họ sẽ đưa bản photo hoặc gỡ tờ đó ra. Tuy vậy, nếu tờ giấy có nửa dấu giáp lai hay vết kim bấm ở góc cạnh, bất động sản có thể đang bị thế chấp.
  • Kiểm tra thông tin ở Văn phòng đăng ký đất đai hoặc Chi nhánh của Văn phòng đăng ký đất đai. Tuy nhiên, cách làm này chỉ có hiệu quả khi bên bán thế chấp nhà đất cho ngân hàng. Còn nếu thế chấp cho các cá nhân hoặc tổ chức cho vay nóng, lãi cao thì bạn sẽ không thể kiểm tra được thông tin.
  • Tìm hiểu thông tin ở văn phòng công chứng: Với cách làm này, người mua phải yêu cầu người bán cung cấp bản sao GCNQSDĐ. Sau đó, người mua đem bản sao này đến văn phòng công chứng để tra cứu thông tin xem nhà, đất đó có đang thế chấp ngân hàng không.

Trên đây là những phân tích pháp lý của TNTP về “hướng dẫn kiểm tra tình trạng pháp lý bất động sản”. Dựa vào những lưu ý trên và nhu cầu của mình, người mua có thể cân nhắc để đưa ra quyết định đúng đắn trước khi giao dịch. Hy vọng bài viết này có ích với bạn.

Có thể bạn chưa đọc 03 Rủi ro khi thực hiện Hợp đồng mua bất động sản hình thành trong tương lai

Công ty Luật TNHH Quốc tế TNTP và Các Cộng sự

Luật sư: Nguyễn Thanh Hà

Email: ha.nguyen@tntplaw.com

Báo động hình thức lừa đảo thông qua phương thức thanh toán D/P

Trong vài năm trở lại đây, hàng loạt các hành vi lừa đảo của các đối tượng, tổ chức nước ngoài đã xảy ra các doanh nghiệp Việt Nam khi giao thương tại mọi thị trường, từ châu Phi, Ấn Độ đến các nước phát triển như Mỹ, Hà Lan, hay gần đây nhất là việc các doanh nghiệp Việt Nam bị lừa đảo 100 container hạt điều tại Italia. Việc này đã ảnh hưởng nghiêm trọng đến quá trình khôi phục kinh tế sau Covid-19 của nước ta và đồng thời là bài học đắt giá cho các doanh nghiệp Việt Nam khi bán hàng hóa cho các đối tác nước ngoài. Do đó, trong bài viết này, chúng tôi sẽ phân tích về hành vi lừa đảo trong các thương vụ quốc tế thông qua hình thức thanh toán D/P (Document against Payment).

1. Hình thức thanh toán D/P là gì?

Hình thức thanh toán D/P (Document against Payment) là hình thức mua bán mang các đặc điểm như sau:

  • Sau khi Bên mua và Bên bán ký kết Hợp đồng, Bên bán sẽ thực hiện giao hàng cho Bên mua thông qua bên vận chuyển trung gian, tuy nhiên, hàng hoá sẽ chỉ được giao về cảng tại quốc gia của Bên mua và do chưa có Bộ hồ sơ chứng từ hàng hoá nên Bên mua không thể lấy được hàng khi chưa thực hiện thanh toán.
  • Bên Bán sau đó sẽ bàn giao Bộ hồ sơ chứng từ hàng hoá cho Ngân hàng của Bên Bán, sau đó Ngân hàng Bên bán sẽ chuyển Bộ hồ sơ chứng từ hàng hoá từ Bên Bán cho Ngân hàng của Bên mua.
  • Sau khi Bên mua thanh toán đầy đủ giá trị Hợp đồng, Ngân hàng của Bên mua sẽ giao cho Bên mua bộ Hồ sơ chứng từ hàng hoá để Bên mua có thể sử dụng để làm thủ tục nhập hàng từ cảng.

Có thể thấy hình thức D/P có tính bảo mật cao khi quá trình thanh toán và giao Bộ hồ sơ chứng từ hàng hoá đều được thực hiện qua các Ngân hàng trung gian uy tín, tuy nhiên, hình thức thanh toán D/P cũng có những rủi ro nhất định. Vụ lừa đảo 100 container hạt điều thời gian gần đây là một ví dụ điển hình

2. Vụ lừa đảo 100 container hạt điều của doanh nghiệp Việt Nam tại Italia

Đối với vụ việc này, các bên đã thực hiện mua bán và thanh toán D/P. Hình thức lừa đảo của Bên mua được thực hiện như sau:

Về nguyên tắc của hình thức thanh toán D/P, sau khi Ngân hàng của Bên mua nhận được Bộ hồ sơ chứng từ hàng hoá từ Ngân hàng Bên Bán, nhưng nếu họ không thể liên hệ với Bên mua, hoặc khi Bên mua không thực hiện việc thanh toán tiền hàng đúng thời gian thanh toán tại Hợp đồng, thì Ngân hàng Bên Bán sẽ phải chuyển phát lại Bộ hồ sơ chứng từ thanh toán cho Ngân hàng Bên Bán. Sau đó, Bên Bán sẽ sử dụng Bộ hồ sơ chứng từ hàng hoá để đưa hàng trở lại Việt Nam.

Tuy nhiên, đối với vụ việc này, Ngân hàng Bên mua sau khi nhận được Bộ hồ sơ chứng từ hàng hoá từ Ngân hàng Bên Bán đã không liên hệ được với Bên mua tại Italia để đề nghị thanh toán giá trị lô hàng. Do đó, Ngân hàng Bên mua đã liên hệ với Bên Bán tại Việt Nam để hoàn trả lại Bộ hồ sơ chứng từ hàng hoá. Tuy nhiên sau khi nhận được Bộ hồ sơ chứng từ hàng hoá từ phía Ngân hàng Bên Bán, Bên mua xác định được rất nhiều Bộ hồ sơ chứng từ mà họ nhận được chỉ là bản sao hoặc thậm chí là giấy trắng, còn Bộ hồ sơ chứng từ hàng hoá gốc đã biến mất. Sau khi nhận ra các dấu hiệu lừa đảo tư Bên mua, các doanh nghiệp tại Việt Nam đã ngừng ngay việc xuất hàng sang Italia, tuy nhiên, 36 trên 100 container đã được các đơn vị vận tải giao thành công đến cảng Genova và Napoli tại Italia.

Có thể xác định rằng Bên mua đã thực hiện trót lọt các thủ đoạn để lừa đảo Ngân hàng Bên mua và thành công chiếm đoạt Bộ hồ sơ chứng từ hàng hoá kể cả khi họ chưa thanh toán tiền hàng. Việc lừa đảo nhiều khả năng có sự liên quan của các bộ phận chuyển phát và nội bộ nhân viên của Ngân hàng Bên mua.

Do đó, toàn bộ hàng hoá của Bên Bán đều đứng trước nguy cơ bị Bên mua chiếm đoạt, vì khi có Bộ hồ sơ chứng từ hàng hoá thì Bên mua hoàn toàn có thể rút lô hàng ra khỏi cảng.

Nhận thấy sự nghiêm trọng của vụ việc, Bộ Công Thương đã nhanh chóng chỉ đạo Cơ quan Thương vụ Việt Nam tại Italy đề nghị Cảnh sát Italia và Các cơ quan có thẩm quyền tại Italia hỗ trợ phong toả, không cho bất kỳ bên nào lấy 36 lô hàng ra khỏi cảng. Hiện nay, cơ quan chức năng của Việt Nam và Italia vẫn đang phối hợp để điều tra về vụ việc.

3. Bài học cho các doanh nghiệp Việt Nam

Vụ việc lừa đảo lần này tuy đã được kịp thời ngăn chặn, nhưng qua đó thể thấy sự “ngây thơ” của các doanh nghiệp Việt Nam trong môi trường kinh doanh toàn cầu có thể dẫn đến hậu quả nghiêm trọng và khó lường.

Bằng kinh nghiệm trong quá trình làm việc, chúng tôi cho rằng những điều các doanh nghiệp Việt Nam cần thực hiện để hạn chế tối đa rủi ro trong hoạt động mua bán với các đối tác nước ngoài thông qua hình thức D/P bao gồm:

  • Xác minh chính xác năng lực của các bên môi giới, đồng thời cũng cần xác minh chính xác thông tin đối tác nước ngoài mà bên môi giới cung cấp. Và quan trọng nhất, các doanh nghiệp Việt Nam phải xác minh chính xác các thông tin của Bên mua trước khi tiến hành giao kết Hợp đồng để tránh việc sa vào các âm mưu lừa đảo tương tự vụ việc trên.
  • Doanh nghiệp Việt Nam nên cử người trực tiếp giao Bộ hồ sơ chứng từ thanh toán đến quốc gia Bên Mua và làm thủ tục tại Ngân hàng Bên Mua để hạn chế rủi ro bị mất Bộ hồ sơ chứng từ thanh toán.
  • Cuối cùng, khi có những dấu hiệu như: Ngân hàng Bên Mua không thể liên hệ với Bên Mua, Bên mua không thanh toán đúng thời hạn, hoặc Bên bán xác định được có khả năng bị lừa đảo, Bên bán cần trực tiếp sử dụng Bộ hồ sơ chứng từ thanh toán để rút lô hàng tại cảng nước ngoài về Việt Nam trong thời gian sớm nhất để tránh việc Bên mua lừa đảo có cơ hội chiếm đoạt lô hàng.

Trên đây là bài phân tích và cảnh báo về hình thức lừa đảo thông qua phương thức thanh toán D/P. Hy vọng bài viết này có ích cho hoạt động của các doanh nghiệp.

Trân trọng.

Có thể bạn chưa đọc Dịch vụ pháp lý thu hồi nợ đối với bên nợ là doanh nghiệp nước ngoài

Công ty Luật TNHH Quốc tế TNTP và Các Cộng sự

Luật sư: Nguyễn Thanh Hà

Email: ha.nguyen@tntplaw.com

Trái phiếu doanh nghiệp – rủi ro tiềm ẩn khi đầu tư

Ngày 03/04/2022, Ủy ban Chứng khoán Nhà nước (“UBCKNN”) đã ban hành Quyết định 181/QĐ-UBCK hủy bỏ 09 đợt chào bán trái phiếu trong thời gian từ tháng 07/2021 đến tháng 03/2022 của Công ty Ngôi Sao Việt, Công ty Cung điện Mùa đông, Công ty Solei thuộc Tập đoàn Tân Hoàng Minh (“Tân Hoàng Minh”) vì có hành vi công bố thông tin sai sự thật, che giấu thông tin trong hoạt động phát hành trái phiếu riêng lẻ. Theo đó, vụ hủy 9 đợt chào bán trái phiếu của Tân Hoàng Minh cho thấy rủi ro tiềm ẩn của trái phiếu doanh nghiệp trên thị trường hiện nay. Để trái phiếu không thành trái đắng, ở bài viết này, TNTP sẽ chỉ ra những rủi ro khi mua trái phiếu doanh nghiệp để nhà đầu tư cân nhắc, tỉnh táo khi đầu tư.

Trước khi tìm hiểu rủi ro đầu tư trái phiếu doanh nghiệp, chúng ta hãy nhắc lại thế nào là trái phiếu doanh nghiệp. Trái phiếu doanh nghiệp là trái phiếu do doanh nghiệp phát hành, dưới dạng chứng chỉ hoặc bút toán ghi nợ. Doanh nghiệp có nghĩa vụ thanh toán cả lãi lẫn gốc cho chủ sở hữu trái phiếu khi đến kỳ hạn. Khi nhà đầu tư mua trái phiếu của một doanh nghiệp nào đó thì nhà đầu tư đang là chủ nợ của họ.

1. Nhà đầu tư gặp rủi ro khi doanh nghiệp phát hành trái phiếu công bố thông tin sai sự thật, che giấu thông tin.

Từ vụ việc Tân Hoàng Minh ta cần tìm hiểu liệu 03 công ty thuộc Tập đoàn có đủ điều kiện để phát hành trái phiếu riêng lẻ hay không? Căn cứ theo quy định của Luật Chứng khoán, đối tượng được phát hành trái phiếu riêng lẻ bao gồm: Công ty đại chúng và công ty chứng khoán; công ty quản lý quỹ đầu tư chứng khoán không phải là công ty đại chúng.

Với trường hợp của 03 công ty thuộc Tập đoàn Tân Hoàng Minh, theo QĐ 181, UBCKNN đã nói rằng tại thời điểm phát hành trái phiếu riêng lẻ, các công ty này chưa đại chúng. Như vậy, có thể thấy, 03 công ty này đã không đáp ứng được điều kiện về công ty là công ty đại chúng khi chào bán trái phiếu riêng lẻ.

Tuy nhiên, nguyên nhân chính dẫn đến việc 03 công ty thuộc Tập đoàn Tân Hoàng Minh bị hủy bỏ 09 đợt phát hành trái phiếu là do 03 công ty này có hành vi công bố thông tin sai sự thật, che giấu thông tin trong hoạt động phát hành trái phiếu riêng lẻ..

2. Cảnh báo Nhà đầu tư rủi ro khi không nắm rõ thông tin về tài sản bảo đảm của doanh nghiệp phát hành trái phiếu.

Trái phiếu của Công ty Soleil thuộc tập đoàn Tân Hoàng Minh, tại đợt phát hành đầu tiên, Chứng khoán An Bình đóng vai trò tổ chức tư vấn, đăng ký lưu ký trái phiếu; SHB là đại lý quản lý tài sản bảo đảm, tổ chức quản lý tài khoản. Còn hai đợt sau, Chứng khoán Agribank là tổ chức tư vấn hồ sơ cháo bán, Viettinbank chi nhánh Tây Thăng Long là ngân hàng quản lý tài sản bảo đảm và quản lý tài khoản. Có thể thấy, trường hợp của Công ty Soleil thuộc trường hợp phát hành trái phiếu có bảo đảm và đơn vị quản lý tài sản bảo đảm là SHB và Viettinbank.

Căn cứ theo Khoản 2 Điều 17 Nghị định 153/2020/NĐ-CP quy định về chào bán trái phiếu doanh nghiệp trong nước. Theo đó, đối với trái phiếu được bảo đảm bằng tài sản, khi doanh nghiệp phát hành không trả được nợ lãi, gốc trái phiếu thì tài sản bảo đảm sẽ được xử lý để thực hiện nghĩa vụ được bảo đảm của trái phiếu theo quy định của pháp luật về giao dịch bảo đảm.

Trường hợp Công ty Soleil không thanh toán được nợ, gốc trái phiếu cho nhà đầu tư thì tài sản bảo đảm sẽ được xử lý để thực hiện nghĩa vụ được bảo đảm. Có 02 tình huống có thể xảy ra:

  • Tài sản bảo đảm thuộc quyền sở hữu của Công ty Soleil, khi đó, thông thường tài sản bảo đảm sẽ được đơn vị quản lý tài sản bảo đảm xử lý để thanh toán khoản lãi, gốc cho các nhà đầu tư;
  • Trường hợp 2, tài sản bảo đảm có thể không thuộc quyền sở hữu của Công ty Soleil mà do một bên thứ ba thế chấp hoặc bảo đảm hoặc tài sản có thể được bảo đảm cho một giao dịch khác ngoài việc bảo đảm cho việc phát hành trái phiếu riêng lẻ của Công ty Soleil. Trong trường hợp này, việc xử lý tài sản bảo đảm sẽ khó khăn hơn do khi đó, đơn vị quản lý tài sản bảo đảm sẽ phải cân nhắc đến thức tự ưu tiên thanh toán theo quy định tại Bộ luật Dân sự trước khi thanh toán các khoản lãi, gốc cho nhà đầu tư.

3. Nhà đầu tư rủi ro khi mua trái phiếu thông qua lời chào mời của các tổ chức cung cấp dịch vụ khi chưa tìm hiểu kỹ về tình hình tài chính của doanh nghiệp phát hành.

Bên cạnh sự hấp dẫn về lãi suất, nhà đầu tư thường bị ảnh hưởng bởi lời chào mời của các tổ chức cung cấp dịch vụ như công ty chứng khoán hay các tổ chức tín dụng. Tổ chức tín dụng, công ty chứng khoán chỉ cung cấp dịch vụ, hưởng phí dịch vụ từ doanh nghiệp phát hành mà không chịu trách nhiệm về việc thẩm định/đánh giá về tình hình tài chính và khả năng trả nợ của doanh nghiệp phát hành, do đó không có trách nhiệm về việc doanh nghiệp có hoàn trả gốc và lãi trái phiếu khi đến hạn hay không.

Do đó, để giảm thiểu tối đa các rủi ro, nhà đầu tư phải hết sức thận trọng đánh giá kỹ về các rủi ro trước khi quyết định mua trái phiếu; không nên mua trái phiếu thông qua chào mời của các tổ chức cung cấp dịch vụ khi chưa tìm hiểu kỹ về tình hình tài chính của doanh nghiệp phát hành và các điều kiện, điều khoản của trái phiếu. Ngoài ra, sau khi mua trái phiếu, nhà đầu tư cần thường xuyên cập nhật về tình hình tài chính, khả năng trả nợ của doanh nghiệp phát hành và việc sử dụng vốn huy động từ trái phiếu có phù hợp với mục đích phát hành trái phiếu hay không. Đồng thời nhà đầu tư cũng nên tìm hiểu kỹ các quyền và trách nhiệm của mình theo quy định của pháp luật khi tham gia giao dịch chứng khoán.

Trên đây là những chia sẻ pháp lý về rủi ro tiềm ẩn khi đầu tư trái phiếu doanh nghiệp. Hy vọng bài viết này có ích cho các bạn.

Trân trọng.

Có thể bạn chưa đọc Trái phiếu tân hoàng minh bị hủy bỏ: làm thế nào để thu hồi khoản tiền đầu tư?

Công ty Luật TNHH Quốc tế TNTP và Các Cộng sự

Luật sư: Nguyễn Thanh Hà

Email: ha.nguyen@tntplaw.com

 

Trái phiếu tân hoàng minh bị hủy bỏ: làm thế nào để thu hồi khoản tiền đầu tư?

Trong thời gian gần đây, dự luận đặc biệt quan tâm đến sự kiện Ủy ban Chứng khoán Nhà nước (“UBCKNN”) đã ban hành quyết định thu hồi 9 đợt phát hành trái phiếu của 3 công ty con thuộc Tập đoàn Tân Hoàng Minh. Ngay sau khi có Quyết định này, Tân Hoàng Minh đã phản hồi rằng trường hợp một trong các đợt phát hành này phải hủy bỏ theo yêu cầu của cơ quan quản lý nhà nước thì Tân Hoàng Minh sẽ làm việc với doanh nghiệp phát hành trái phiếu, cơ quan quản lý nhà nước để hoàn trả lại số tiền đã huy động cho khách hàng theo đúng quy định pháp luật. Vậy nhà đầu tư có thể làm gì để thu hồi khoản tiền đầu tư từ việc mua trái phiếu của Tân Hoàng Minh?

1. Trước tiên, chúng ta cần xem xét liệu rằng việc 09 đợt phát hành trái phiếu bị hủy có dẫn đến hợp đồng bảo đảm giữa Tân Hoàng Minh và các đơn vị quản lý tài sản bảo đảm có bị vô hiệu hay không?

Về bản chất, trái phiếu là giống như một dạng hợp đồng vay, doanh nghiệp phát hành trái phiếu để huy động vốn vay từ những người mua trái phiếu (nhà đầu tư) với mục đích tài trợ cho hoạt động kinh doanh của mình. Đổi lại, doanh nghiệp sẽ phải trả lãi cho nhà đầu tư trong khoảng thời gian định kỳ được xác định trước (thường là hàng năm hoặc nửa năm một lần) và trả lại khoản gốc vào ngày đáo hạn để chấm dứt việc nợ. Việc doanh nghiệp phát hành trái phiếu có tài sản bảo đảm sẽ đảm bảo được rủi ro khi doanh nghiệp không thanh toán được lãi và khoản gốc cho nhà đầu tư.

Tuy nhiên, nhiều doanh nghiệp phát hành trái phiếu nhưng không có tài sản bảo đảm. Căn cứ theo quy định tại Khoản 1 Điều 5 Nghị định 153/2020/NĐ-CP quy định về chào bán, giao dịch trái phiếu doanh nghiệp riêng lẻ tại thị trường trong nước và chào bán trái phiếu doanh nghiệp ra thị trường quốc tế, theo đó, doanh nghiệp huy động vốn trái phiếu riêng lẻ theo nguyên tắc tự vay, tự trả, tự chịu trách nhiệm, cơ quan quản lý nhà nước không cấp phép phát hành. Từ đó có thể thấy rằng Luật Chứng khoán 2019 cùng với Nghị định 153/2020/NĐ-CP hiện vẫn còn nhiều “lỗ hổng” trong quy định liên quan đến trái phiếu doanh nghiệp riêng lẻ không có tài sản đảm bảo hay tài sản bảo đảm có chất lượng không cao.

Có thể dễ dàng nhận thấy, đối với trường hợp của Tân Hoàng Minh, hầu hết số tiền thu được từ các đợt huy động trái phiếu có khả năng cao đã được Tân Hoàng Minh sử dụng cho việc đầu tư vào các dự án của mình. Do đó, việc xử lý dòng tiền hoàn trả cho các nhà đầu tư đã mua trái phiếu trong 09 đợt trái phiếu bị hủy sẽ phụ thuộc vào việc xử lý tài sản bảo đảm của Tân Hoàng Minh khi phát hành trái phiếu.

Đối với các đợt phát hành trái phiếu, Tân Hoàng Minh đều có tài sản bảo đảm và có đơn vị đứng ra tổ chức, quản lý tài sản bảo đảm. Trong trường hợp này, hợp đồng về việc quản lý tài sản bảo đảm sẽ được coi là hợp đồng phụ đối với giao dịch mua bán trái phiếu giữa Tân Hoàng Minh và nhà đầu tư. Căn cứ theo Khoản 2 Điều 407 Bộ luật Dân sự 2015 quy định về Hợp đồng vô hiệu, theo đó, sự vô hiệu của hợp đồng chính làm chấm dứt hợp đồng phụ, trừ trường hợp các bên có thỏa thuận hợp đồng phụ được thay thế hợp đồng chính. Quy định này không áp dụng đối với biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ. Do đó, mặc dù 09 đợt phát hành trái phiếu của Tân Hoàng Minh bị hủy bỏ nhưng hợp đồng về tổ chức, quản lý tài sản bảo đảm giữa Tân Hoàng Minh và đơn vị tổ chức, quản lý tài sản bảo đảm vẫn còn hiệu lực. Như vậy, việc 09 đợt trái phiếu của Tân Hoàng Minh bị hủy bỏ không dẫn đến việc hợp đồng bảo đảm giữa Tân Hoàng Minh và các đơn vị quản lý tài sản bảo đảm bị vô hiệu.

2. Vậy nhà đầu tư có thể làm gì để thu hồi khoản tiền đầu tư từ việc mua trái phiếu của Tân Hoàng Minh? Có 02 phương án nhà đầu tư có thể áp dụng.

– Thứ nhất, trường hợp tài sản bảo đảm của Tân Hoàng Minh là những tài sản rất khó đoán định khả năng thanh toán như cổ phần, quyền sử dụng đất, quyền tài sản phát sinh từ hợp đồng hợp tác đầu tư,… hoặc khả năng thanh toán của tài sản bảo đảm của Tân Hoàng Minh là không cao.

Trong trường hợp này, sau khi hết thời hạn 60 ngày kể từ ngày UBCKNN quyết định áp dụng thu hồi 9 đợt phát hành trái phiếu, Tân Hoàng Minh chưa tiến hành thanh toán khoản lãi và gốc cho nhà đầu tư thì nhà đầu tư có quyền yêu cầu toà án mở thủ tục phá sản căn cứ theo quy định tại Khoản 1 Điều 5 Luật phá sản 2014. Tuy nhiên, trường hợp này chỉ áp dụng khi nhà đầu tư không có bảo đảm hoặc chỉ được bảo đảm một phần. Sau khi được toà án chấp nhận yêu cầu mở thủ tục phá sản, tài sản của doanh nghiệp sẽ được phân chia theo thứ tự như chi phí phá sản, khoản nợ lương, trợ cấp, khoản nợ phát sinh sau khi mở thủ tục phá sản nhằm mục đích phục hồi hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, nghĩa vụ tài chính đối với nhà nước, khoản nợ không có bảo đảm phải trả cho chủ nợ, khoản nợ có bảo đảm chưa được thanh toán do giá trị tài sản không đủ thanh toán nợ. Như vậy, trường hợp hết thời hạn thanh toán khoản nợ theo quy định, Tân Hoàng Minh không thực hiện việc thanh toán khoản nợ và nhà đầu tư không có bảo đảm hoặc có bảo đảm một phần thì nhà đầu tư có quyền yêu cầu toà án mở thủ tục phá sản.

– Thứ hai, yêu cầu các đơn vị tổ chức, quản lý tài sản bảo đảm xử lý tài sản bảo đảm của Tân Hoàng Minh đối với từng đợt phát hành trái phiếu. Trường hợp tài sản thế chấp thuộc sở hữu của Tân Hoàng Minh và có thể xử lý được thì khi đó, nhà đầu tư có thể yêu cầu đơn vị tổ chức, quản lý tài sản bảo đảm xử lý tài sản bảo đảm của Tân Hoàng Minh để thanh toán khoản lãi và gốc tiền đầu tư.

Như vậy, việc nắm rõ thông tin về trái phiếu là cách duy nhất để hạn chế rủi ro cho các nhà đầu tư khi tham gia thị trường trái phiếu doanh nghiệp. Nhà đầu tư cần hết sức lưu ý nguyên tắc cơ bản là lãi suất càng cao thì rủi ro càng lớn. Do đó, nhà đầu tư cần phải hết sức thận trọng khi đánh giá rủi ro trước khi quyết định mua trái phiếu doanh nghiệp nhằm hạn chế những tình huống có thể xảy ra trong việc phải “chạy theo” xử lý hậu quả của các doanh nghiệp phát hành trái phiếu sai quy định. Đồng thời, nhà đầu tư có thể đảm bảo được quyền và lợi ích của mình khi tham gia giao dịch mua bán trái phiếu.

Trên đây là chia sẻ kiến thức pháp lý của TNTP trả lời cho câu hỏi “Trái phiếu Tân Hoàng Minh bị hủy bỏ: Làm thế nào để thu hồi khoản tiền đầu tư?. Hy vọng bài viết sẽ giúp ích cho công việc của các độc giả.

Trân trọng.

Có thể bạn chưa đọc Lối đi nào cho cổ phiếu hag của hoàng anh gia lai?

Công ty Luật TNHH Quốc tế TNTP và Các Cộng sự

Tầng 6, Số 200 Nguyễn Lương Bằng, Phường Quang Trung, Quận Đống Đa, Hà Nội

Luật sư Nguyễn Thanh Hà

Email: ha.nguyen@tntplaw.com

Sự cần thiết phải có luật thu hồi nợ tại Việt Nam

Trong hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp luôn luôn có khả năng phát sinh công nợ – một hậu quả tất yếu khi bên vay tiền hoặc một giá trị tài sản nhưng không trả đúng thời hạn hoặc số lượng cho chủ nợ. Khi đó, các chủ nợ thường sử dụng các dịch vụ thu hồi nợ để khôi phục khoản nợ từ phía bên nợ. Tuy nhiên, các hoạt động thu hồi nợ hợp pháp tại Việt Nam hiện nay không thực sự hiệu quả bởi sự hạn chế trong quy định của pháp luật. Trong bài viết này, chúng tôi sẽ đưa ra những quan điểm về sự cần thiết phải có Luật thu hồi nợ tại Việt Nam.

1. Thực tiễn hoạt động thu hồi nợ tại Việt Nam

Trước khi Luật đầu tư 2020 có hiệu lực, dịch vụ đòi nợ là một ngành nghề kinh doanh có điều kiện tại Việt Nam. Tuy nhiên, rất nhiều công ty thu hồi nợ chủ yếu áp dụng các biện pháp thu hồi nợ theo kiểu “xã hội đen” nhằm uy hiếp tinh thần và đe dọa để buộc bên nợ phải thanh toán cho chủ nợ.

Sau khi Luật đầu tư 2020 có hiệu lực đã đưa hoạt động “Kinh doanh dịch vụ đòi nợ” vào danh mục cấm đầu tư kinh doanh, hàng loạt các công ty thực hiện hoạt động thu hồi nợ được thành lập trước đó đều phải chấm dứt hoạt động. Cho đến thời điểm hiện tại, chỉ duy nhất các văn phòng Luật có khả năng tiến hành các hoạt động thu hồi nợ hợp pháp với các biện pháp thu hồi nợ ôn hòa hơn như: Thương lượng, khởi kiện ra Toà án theo thủ tục tố tụng, hoặc tố cáo lên cơ quan cảnh sát điều tra có thẩm quyền nếu xác định bên nợ có điều kiện nhưng không thanh toán, hoặc xác định được bên nợ có dấu hiệu vi phạm luật hình sự.

Về mặt pháp luật, việc cấm hoạt động Kinh doanh dịch vụ đòi nợ theo hình thức “xã hội đen” là hợp lý vì có thể đảm bảo trật tự xã hội và góp phần vào một xã hội văn minh hơn. Tuy nhiên, không thể phủ nhận tính hiệu quả của việc uy hiếp, đe dọa bên nợ khi các hình thức này tác động trực tiếp vào tâm lý, thậm chí là và thể chất khiến bên nợ phải chịu áp lực, sợ hãi, và khiến việc thu hồi nợ trở nên nhanh chóng và hiệu quả. Các chủ nợ thường không hấp dẫn với các phương án ôn hòa và tuân thủ pháp luật như thương lượng hay khởi kiện tại Tòa án vì các phương án này thường có thủ tục phức tạp và mất nhiều thời gian, không đem lại giá trị kinh tế đối với các chủ nợ.

2. Sự cần thiết của Luật thu hồi nợ

Tại một số quốc gia trên thế giới, hoạt động thu hồi nợ vẫn được pháp luật cho phép nhưng phải đáp ứng đầy đủ các điều kiện mới có thể hoạt động. Có thể lấy ví dụ như Đạo luật thu hồi nợ Công bằng – FDCPA của Hoa Kỳ.

Bản chất của FDCPA là đưa ra các quy định để ràng buộc những hành vi của những bên thứ ba thực hiện dịch vụ thu hồi nợ, theo đó, bên thực hiện dịch vụ thu hồi nợ thay cho chủ nợ bắt buộc phải đảm bảo không xâm phạm đến quyền công dân và các quyền khác mà bên nợ được pháp luật bảo vệ. Các quy định cụ thể gồm:

– Điều kiện khi bên nợ gọi điện thoại:

  • Phải công khai thông tin của bên thu hồi nợ và chủ nợ trước khi đưa ra yêu cầu;
  • Chỉ được phép gọi điện trong thời gian từ 8 giờ sáng đến 9 giờ tối;
  • Không được sử dụng ngôn từ xúc phạm hoặc đe doạ bên nợ.

-Quy định về việc cung cấp thông tin của bên thu hồi nợ

  • Trước khi yêu cầu bên nợ thanh toán, bên thu hồi nợ phải thông báo về họ, tên người thu hồi nợ, tổ chức thu hồi nợ đang hoạt động;
  • Số tiền bên nợ phải thanh toán;
  • Họ, tên, thông tin cụ thể của chủ nợ.

– Các quy định cấm

  • Cấm sử dụng các hình thức hoặc hành vi lạm dụng, gây phiền nhiễu đến bên nợ;
  • Cấm việc công khai thông tin về khoản nợ của bên nợ cho những bên khác ngoài chủ nợ và bên nợ.

Những kinh nghiệm nêu trên của FDCPA hoàn toàn có thể áp dụng tại Việt Nam, vì khi Hoạt động thu hồi nợ được kiểm soát bằng những quy định cụ thể, rõ ràng thì hoạt động thu hồi nợ sẽ trở nên văn minh, đảm bảo được quyền lợi của bên nợ và duy trì được trật tự, ổn định xã hội. Đồng thời, một khi hoạt động thu hồi nợ trở nên hiệu quả sẽ khai thông dòng tiền vốn bị ngưng trệ do các khoản nợ xấu phát sinh, và là một động lực để phát triển nền kinh tế Việt Nam, nhất là trong hoàn cảnh nước ta đang khôi phục hoạt động sản xuất kinh doanh hậu Covid-19, và rất nhiều khoản nợ phát sinh trong xã hội do ảnh hưởng của đại dịch.

Trên đây là chia sẻ kiến thức pháp lý của TNTP về sự cần thiết phải có Luật thu hồi nợ tại Việt Nam. Hy vọng bài viết sẽ giúp ích cho công việc của các độc giả.

Trân trọng.

Có thể bạn chưa đọc Giới thiệu về đạo luật thực hành đòi nợ công bằng – FDCPA

Công ty Luật TNHH Quốc tế TNTP và Các Cộng sự

Tầng 6, Số 200 Nguyễn Lương Bằng, Phường Quang Trung, Quận Đống Đa, Hà Nội

Luật sư Nguyễn Thanh Hà

Email: ha.nguyen@tntplaw.com

Tranh chấp về quyền tác giả – làm cách nào để giải quyết?

Hiện nay, tình trạng xâm phạm quyền tác giả diễn biến ngày càng phổ biến và phức tạp. Bất kỳ ai đều có thể trở thành người bị xâm phạm quyền tác giả. Quyền tác giả không được bảo vệ tốt sẽ mang lại những nguy cơ nghiêm trọng, những rủi ro đáng kể về mặt lợi ích kinh tế cho chính bản thân tác giả và chủ sở hữu quyền (“chủ thể quyền”). Khi tranh chấp về quyền tác giả xảy ra, chủ thể quyền phải làm gì để bảo vệ tối đa quyền và lợi ích hợp pháp của mình cũng như hạn chế các thiệt hại? Mời các bạn đón đọc bài viết sau để có cái nhìn khái quát về tranh chấp quyền tác giả cũng như những biện pháp giải quyết tranh chấp về quyền tác giả.

1. Khái niệm quyền tác giả

 Quyền tác giả là quyền hợp pháp của tổ chức, cá nhân đối với tác phẩm do mình sáng tạo ra hoặc sở hữu. Để được bảo hộ, tác phẩm phải có tính nguyên gốc, không sao chép tác phẩm khác và đáp ứng các điều kiện được bảo hộ theo Điều 14 Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005 sửa đổi, bổ sung năm 2009 (“Luật SHTT”) như là Tác phẩm văn học, khoa học, sách giáo khoa, giáo trình và tác phẩm khác được thể hiện dưới dạng chữ viết hoặc ký tự khác; Bài giảng, bài phát biểu và bài nói khác; Tác phẩm báo chí; Tác phẩm âm nhạc;…

2. Những tranh chấp phổ biến về quyền tác giả

Những tranh chấp phổ biến có liên quan đến quyền tác giả có thể kể đến như:

– Tranh chấp giữa cá nhân với cá nhân về quyền tác giả đối với tác phẩm văn học, nghệ thuật, khoa học, tác phẩm phái sinh;

– Tranh chấp giữa các đồng tác giả về phân chia quyền đồng tác giả;

– Tranh chấp giữa cá nhân và tổ chức về chủ thể quyền tác giả tác phẩm;

– Tranh chấp giữa chủ thể quyền tác giả với tác giả về tiền nhuận bút, tiền thù lao cho tác giả sáng tạo tác phẩm trên cơ sở nhiệm vụ được giao hoặc hợp đồng;

– Tranh chấp về thực hiện quyền nhân thân hoặc quyền tài sản của tác giả, chủ thể quyền tác giả;

3. Các phương thức giải quyết tranh chấp về quyền tác giả

–  Phương thức thương lượng, hòa giải

+ Thương lượng:

Khi phát hiện quyền tác giả bị xâm phạm, chủ thể quyền có thể thông báo bằng văn bản yêu cầu người xâm phạm chấm dứt hành vi xâm phạm. Văn bản thông báo có các thông tin chỉ dẫn về căn cứ phát sinh, văn bằng bảo hộ, phạm vi, thời hạn bảo hộ và phải ấn định một thời hạn hợp lý để người xâm phạm chấm dứt hành vi xâm phạm.

Sau đó, hai bên liên hệ, trao đổi để giải quyết tranh chấp. Chủ thể quyền có thể yêu cầu bên có hành vi xâm phạm phải chấm dứt hành vi xâm phạm, xin lỗi, cải chính công khai, bồi thường thiệt hại. Trong giai đoạn này, các bên tự giải quyết nội bộ với nhau. Với thủ tục giải quyết đơn giản và không bị ràng buộc bởi các thủ tục pháp lý, phương thức thương lượng giúp các bên tiết kiệm chi phí và giữ được bí mật, uy tín; tuy nhiên kết quả giải quyết tranh chấp phụ thuộc vào thiện chí và sự hợp tác của hai bên, kết quả thương lượng không được đảm bảo bằng cơ chế pháp lý bắt buộc.

+ Hòa giải:

Với phương thức hòa giải, các bên đàm phán giải quyết với sự trợ giúp của một bên thứ ba độc lập là hòa giải viên. Hòa giải viên giữ vai trò trung gian, độc lập để phân tích cho các bên về bản chất của tranh chấp, quy định pháp luật, giải pháp phù hợp nhất mà các bên có thể chấp nhận nhưng không có quyền xét xử và ra phán quyết. Giống như phương thức thương lượng, kết quả hòa giải phụ thuộc phần lớn vào sự thỏa thuận của các bên và năng lực của hòa giải viên. Đồng thời, các bên sẽ tốn chi phí để mời hòa giải viên.

– Phương thức yêu cầu cơ quan nhà nước có thẩm quyền xử lý hành vi xâm phạm

Chủ thể quyền có thể gửi đơn yêu cầu xử lý xâm phạm đến cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền. Trước khi gửi đơn yêu cầu, chủ thể quyền phải thông báo cho người có hành vi xâm phạm biết họ đang xâm phạm đồng thời yêu cầu chấm dứt hành vi xâm phạm trong thời gian hợp lý. Nếu sau thời gian đó, người xâm phạm không tự nguyện chấm dứt hành vi xâm phạm, chủ thể quyền có quyền yêu cầu các cơ quan có thẩm quyền xử lý bằng cách gửi Đơn yêu cầu và cung cấp các chứng cứ chứng minh sự hiện hữu của hành vi xâm phạm. Một hành vi xâm phạm quyền sẽ bị xử lý bằng biện pháp hành chính hoặc hình sự phụ thuộc tính chất mức độ nguy hiểm của hành vi. Ngoài bị xử lý hành chính hoặc hình sự, người vi phạm vẫn có thể bị áp dụng biện pháp dân sự để giải quyết vấn đề bồi thường thiệt hại cho chủ thể quyền.

– Phương thức khởi kiện ra tòa án hoặc trọng tài thương mại

Phương thức này là phương thức cuối cùng khi người xâm phạm quyền không chủ động và tự nguyện thực hiện các yêu cầu chính đáng của chủ thể quyền và các bên không đạt được một thỏa thuận giải quyết tranh chấp cuối cùng. Chủ thể quyền có thể khởi kiện giải quyết tranh chấp về quyền tác giả bằng phương thức trọng tài hoặc khởi kiện giải quyết tranh chấp tại Tòa án có thẩm quyền.

Trên hết, để phòng ngừa những tranh chấp về quyền tác giả có thể xảy ra, chủ thể quyền cần nhận thức được quyền và lợi ích hợp pháp của mình bằng cách chủ động đăng ký quyền tác giả với cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền, đồng thời áp dụng các biện pháp nhằm ngăn ngừa hành vi xâm phạm quyền tác giả, như:

  • Cung cấp các thông tin quản lý quyền gắn với bản gốc hoặc bản sao tác phẩm, bản ghi âm, ghi hình, chương trình phát sóng;
  • Cung cấp thông tin quản lý quyền xuất hiện cùng với việc truyền đạt tác phẩm tới công chúng nhằm xác định tác phẩm, tác giả của tác phẩm, chủ thể quyền, thông tin về thời hạn, điều kiện sử dụng tác phẩm và mọi số liệu hoặc mã, ký hiệu thể hiện thông tin đó để bảo vệ quyền tác giả;
  • Áp dụng các biện pháp công nghệ để bảo vệ các thông tin quản lý quyền, ngăn chặn các hành vi tiếp cận tác phẩm, khai thác bất hợp pháp quyền sở hữu của mình.

Trên đây là các thông tin cần lưu ý khi giải quyết tranh chấp về quyền tác giả mà chúng tôi đã tổng hợp trong nghiên cứu quy định của pháp luật và dựa trên thực tiễn hiện nay. Hy vọng bài viết của chúng tôi sẽ hữu ích cho các bạn và công việc của các bạn.

Trân trọng.

Có thể bạn chưa đọc:Dịch vụ pháp lý hỗ trợ khách hàng giải quyết tranh chấp thương mại

Tham gia Fanpage Giải Quyết Tranh Chấp và Thu Hồi Nợ để có thêm kiến thức pháp lý hữu ích.

Công ty Luật TNHH Quốc tế TNTP và Các Cộng sự

Luật sư Nguyễn Thanh Hà

Email: ha.nguyen@tntplaw.com

Công ty Luật TNHH Quốc Tế TNTP và Các Cộng Sự

  • Văn phòng tại Hồ Chí Minh:
    Phòng 1901, Tầng 19 Tòa nhà Saigon Trade Center, 37 Tôn Đức Thắng, Phường Bến Nghé, Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh
  • Văn phòng tại Hà Nội:
    Số 2, Ngõ 308 Tây Sơn, Phường Thịnh Quang, Quận Đống Đa, Hà Nội
  • Email: ha.nguyen@tntplaw.com


    Bản quyền thuộc về: Công ty Luật TNHH Quốc Tế TNTP và Các Cộng Sự