Khi xác lập giao dịch dân sự, nhằm bảo đảm việc thực hiện nghĩa vụ như đã cam kết, các bên thường thỏa thuận thêm các điều khoản hoặc ký kết độc lập thỏa thuận về cầm cố, thế chấp tài sản. Khi bên có nghĩa vụ vi phạm, đặc biệt là vi phạm nghĩa vụ thanh toán dẫn tới phát sinh nợ thì bên nhận bảo đảm có thể xử lý các tài sản đã được cầm cố hoặc thế chấp để thu hồi khoản nợ đó. Trong bài viết này, TNTP sẽ phân tích một số nội dung pháp luật liên quan đến việc thu hồi nợ thông qua xử lý tài sản được cầm cố hoặc thế chấp.
1. Xử lý tài sản cầm cố, thế chấp là gì?
Theo Bộ luật Dân sự (BLDS) 2015, cầm cố và thế chấp là những biện pháp nhằm bảo đảm cho việc thực hiện nghĩa vụ. Điểm khác biệt trọng yếu giữa hai biện pháp này là việc có hay không hành vi chuyển giao tài sản của bên bảo đảm sang cho bên nhận bảo đảm.
Theo đó, với tính chất là một biện pháp bảo đảm, căn cứ Điều 299 BLDS 2015, việc xử lý tài sản bảo đảm nói chung và xử lý tài sản cầm cố, thế chấp nói riêng chỉ được đặt ra trong các trường hợp sau:
• Bên có nghĩa vụ không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ khi hết thời hạn thực hiện nghĩa vụ đã được thỏa thuận;
• Bên có nghĩa vụ phải thực hiện nghĩa vụ được bảo đảm trước thời hạn do bên có nghĩa vụ đã vi phạm nghĩa vụ theo thỏa thuận của các bên hoặc theo quy định của luật;
• Các trường hợp khác theo thỏa thuận của các bên.
2. Thủ tục xử lý tài sản cầm cố, thế chấp để thu hồi nợ
Như đã đề cập ở trên, khi bên có nghĩa vụ có hành vi vi phạm nghĩa vụ, bên nhận bảo đảm thường sẽ có quyền xử lý tài sản cầm cố, thế chấp. Do đó, đối với các giao dịch đã được xác lập biện pháp bảo đảm cho nghĩa vụ thanh toán mà bên có nghĩa vụ không thanh toán theo cam kết, bên nhận bảo đảm có thể thu hồi khoản nợ mà bên có nghĩa vụ đáng lẽ phải thanh toán bằng việc tiến hành xử lý tài sản bảo đảm. Trình tự thu hồi nợ thông qua xử lý tài sản cầm cố, thế chấp hiện nay được quy định như sau:
2.1. Thông báo và nhận tài sản cầm cố, thế chấp để xử lý
Theo quy định tại khoản 1 Điều 300 BLDS 2015, trước khi tiến hành xử lý tài sản cầm cố, thế chấp, bên nhận bảo đảm có trách nhiệm gửi thông báo đến bên bảo đảm cũng như các bên cùng nhận bảo đảm khác (nếu có). Về hình thức của thông báo, thông báo phải được thể hiện bằng văn bản.
Về thời hạn thông báo, căn cứ Điều 51 Nghị định 21/2021/NĐ-CP, nếu các bên không có thỏa thuận khác, thông báo phải được gửi trước thời điểm xử lý tài sản ít nhất 10 ngày đối với tài sản cầm cố, thế chấp là động sản và 15 ngày đối với tài sản cầm cố, thế chấp là bất động sản. Tuy nhiên, ngoại lệ, bên nhận bảo đảm được xử lý tài sản mà không phải thông báo trong trường hợp tài sản bảo đảm có nguy cơ bị hư hỏng khiến giá trị bị suy giảm hoặc mất hoàn toàn. Tuy nhiên, sau đó, bên nhận bảo đảm phải thông báo việc xử lý tài sản này cho các bên liên quan.
Đối với tài sản cầm cố, bên nhận bảo đảm thường đã nắm giữ tài sản ngay từ thời điểm ký kết hợp đồng. Đối với tài sản thế chấp, do tài sản được quản lý bởi bên bảo đảm hoặc bên thứ ba nên bên nhận thế chấp có thể phải yêu cầu họ bàn giao tài sản để tiến hành xử lý. Tuy nhiên, trên thực tế, bên thế chấp và bên đang giữ tài sản thường không hợp tác giao tài sản khi có yêu cầu. Trong trường hợp này, bên nhận bảo đảm có quyền yêu cầu Tòa án có thẩm quyền buộc người này bàn giao tài sản.
2.2. Định giá và xử lý tài sản bảo đảm
Định giá tài sản là bước cần thiết nhằm xác định giá trị của tài sản, từ đó phục vụ việc xử lý và thanh toán. Điều 306 BLDS 2015 cho phép việc định giá được thực hiện theo thỏa thuận giữa các bên hoặc thông qua một tổ chức định giá chuyên nghiệp.
Căn cứ vào quy định của BLDS 2015 tại Điều 303, các phương thức xử lý tài sản được quy định bao gồm:
• Bán đấu giá tài sản;
• Bên nhận bảo đảm tự bán tài sản;
• Bên nhận bảo đảm nhận tài sản bảo đảm để thay thế cho nghĩa vụ phải thực hiện của bên bảo đảm;
• Các phương thức khác theo thỏa thuận không vi phạm quy định của pháp luật và đạo đức xã hội.
Trong trường hợp các bên không có thỏa thuận và pháp luật không có quy định khác, tài sản phải được xử lý thông qua bán đấu giá.
2.3. Thanh toán sau khi xử lý tài sản cầm cố, thế chấp
Sau khi xử lý tài sản cầm cố, thế chấp, căn cứ Điều 307 BLDS 2015, khoản tiền có được từ việc xử lý tài sản sẽ được thanh toán như sau:
• Thứ nhất, thanh toán chi phí phát sinh từ việc thu giữ, bảo quản, xử lý tài sản;
• Thứ hai, thanh toán cho bên nhận bảo đảm khoản tiền tương đương với giá trị nghĩa vụ của bên có nghĩa vụ. Nếu có nhiều bên nhận bảo đảm nghĩa vụ bằng cùng một tài sản thì các bên cùng nhận bảo đảm có quyền thỏa thuận để xác định và thay đổi thứ tự ưu tiên thanh toán. Trường hợp các bên không có thỏa thuận thì căn cứ vào Điều 308 BLDS 2015, thứ tự thanh toán như sau:
– Nếu tất cả các biện pháp bảo đảm đều có hiệu lực đối kháng với người thứ ba, việc thanh toán được thực hiện theo thứ tự thời gian đã xác lập hiệu lực đối kháng;
– Nếu trong số các biện pháp bảo đảm có biện pháp bảo đảm có và biện pháp bảo đảm không có hiệu lực đối kháng, nghĩa vụ có biện pháp bảo đảm có hiệu lực đối kháng sẽ được thanh toán trước;
– Nếu tất cả biện pháp bảo đảm đều không có hiệu lực đối kháng, thứ tự thanh toán được xác định theo thời điểm các biện pháp bảo đảm được thiết lập.
Việc xử lý tài sản cầm cố, thế chấp là một trong những phương thức quan trọng để đảm bảo thực hiện nghĩa vụ tài sản trong giao dịch dân sự và thương mại. Quá trình xử lý tài sản bảo đảm cần tuân thủ nghiêm ngặt các quy định pháp luật nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các bên liên quan cũng như tránh phát sinh các tranh chấp không đáng có.
Trên đây là bài viết của TNTP liên quan tới nội dung “Xử lý tài sản cầm cố, thế chấp – Một trong những cách thức thu hồi nợ”. Hy vọng bài viết này sẽ hữu ích đối với quý độc giả.
Trân trọng,