Skip to main content

Từ 15/10/2025, Ngân hàng có thể tự thu giữ tài sản bảo đảm mà không cần khởi kiện?

| TNTP LAW |

Quyền thu giữ tài sản bảo đảm (“TSBĐ”) của các tổ chức tín dụng (“TCTD”) từng được quy định tại Nghị quyết số 42/2017/QH14 về thí điểm xử lý nợ xấu của các TCTD (“Nghị quyết 42”). Sau khi Nghị quyết 42 hết hiệu lực từ ngày 01/01/2024, quyền thu giữ TSBĐ đã được chính thức quy định trong Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Các tổ chức tín dụng số 96/2025/QH15 (“Luật TCTD 2025”), có hiệu lực từ ngày 15/10/2025. Bài viết dưới đây tổng hợp các nội dung chính liên quan tới quyền thu giữ TSBĐ trong Luật TCTD 2025, từ đó đánh giá khả năng thực hiện quyền trên thực tế.

1.Quy định mới của Luật TCTD 2025 về quyền tự thu giữ tài sản của TCTD

Luật TCTD 2025 bổ sung Điều 198a quy định cụ thể về quyền tự thu giữ TSBĐ của TCTD. Điều 198a.1 của Luật TCTD 2025 quy định Bên bảo đảm, người đang giữ tài sản bảo đảm (“Bên bảo đảm”) của khoản nợ xấu có nghĩa vụ giao tài sản bảo đảm kèm theo giấy tờ, hồ sơ pháp lý của TSBĐ cho TCTD để xử lý nợ. Trường hợp Bên bảo đảm không giao tài sản bảo đảm cho TCTD để xử lý nợ thì TCTD được thu giữ tài sản bảo đảm theo quy định tại Điều 198a.

Tuy nhiên, TCTD chỉ có quyền tự thu giữ tài sản khi đáp ứng các điều kiện tại Điều 198a.2 của Luật TCTD 2025:

  • Thứ nhất, khi xảy ra trường hợp xử lý TSBĐ theo quy định của Bộ luật Dân sự tại điều 299 (đến hạn thực hiện nghĩa vụ được bảo đảm mà bên có nghĩa vụ không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ; hoặc bên có nghĩa vụ phải thực hiện nghĩa vụ được bảo đảm trước thời hạn do vi phạm nghĩa vụ theo thỏa thuận hoặc theo quy định của luật; …).
  • Thứ hai, hợp đồng bảo đảm có thỏa thuận về việc bên bảo đảm đồng ý cho bên nhận bảo đảm có quyền thu giữ tài sản bảo đảm của khoản nợ xấu khi xảy ra trường hợp xử lý tài sản bảo đảm theo quy định của pháp luật về bảo đảm thực hiện nghĩa vụ. Quy định này nhằm bảo đảm nguyên tắc tự do thỏa thuận giữa các bên, phù hợp với Hiến pháp và Bộ luật Dân sự 2015.
  • Thứ ba, TSBĐ không là tài sản tranh chấp thuộc vụ án đang được Tòa thụ lý nhưng chưa giải quyết hoặc đang giải quyết, không bị áp dụng biện pháp khẩn chấp, kê biên, bị phong tỏa hay tạm đình chỉ xử lý theo quy định của pháp luật về phá sản.
  • Thứ tư, biện pháp bảo đảm đã phát sinh hiệu lực đối kháng với người thứ ba theo quy định của pháp luật về bảo đảm thực hiện nghĩa vụ.
  • Thứ năm, TCTD đã thực hiện nghĩa vụ công khai thông tin thu giữ TSBĐ. Điều 198a.3 và 198a.4 yêu cầu TCTD phải thực hiện nghĩa vụ công khai thông tin thu giữ TSBĐ và lý do thu giữ trước khi tiến hành thu giữ TSBĐ. Việc công khai được thực hiện bằng cách đăng tải thông tin trên website; gửi văn bản thông báo cho Ủy ban nhân dân (“UBND”) và Công an cấp xã nơi có tài sản; thông báo trực tiếp cho bên bảo đảm và người giữ tài sản (nếu có) theo phương thức đã thỏa thuận trong hợp đồng hoặc qua ủy quyền, dịch vụ bưu chính,… Đối với tài sản là bất động sản, việc công khai có thể tiến hành thêm bằng niêm yết văn bản tại trụ sở UBND xã nơi bên bảo đảm đăng ký địa chỉ hoặc nơi có tài sản và phải công khai chậm nhất 15 ngày trước ngày tiến hành thu giữ TSBĐ.

Trường hợp bên bảo đảm không hợp tác hoặc không có mặt theo thông báo của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, tổ chức mua bán, xử lý nợ, đại diện Ủy ban nhân dân cấp xã nơi tiến hành thu giữ tài sản bảo đảm tham gia chứng kiến và ký biên bản thu giữ tài sản bảo đảm (Điều 198a.5).

2.Đánh giá khả năng thực hiện quyền thu giữ tài sản bảo đảm của TCTD

Thu giữ TSBĐ là quyền quan trọng giúp các TCTD xử lý nợ xấu hiệu quả. Tuy nhiên, trong thực tế, khả năng thực hiện quyền này phụ thuộc nhiều vào việc Bên bảo đảm có hợp tác hay không.

Trường hợp Bên bảo đảm đồng ý bàn giao tài sản, các điều kiện về việc thu giữ TSBĐ được đáp ứng đầy đủ và TCTD đã thực hiện công khai thông tin thu giữ đúng quy định, TCTD có thể tiến hành thu giữ TSBĐ mà không cần khởi kiện tại Tòa án hoặc Trọng tài. Việc này giúp quá trình thu hồi nợ của các TCTD diễn ra chủ động, nhanh chóng và hiệu quả.

Trong trường hợp Bên bảo đảm không tự nguyện bàn giao tài sản, giữa Bên bảo đảm và TCTD được xem là đã phát sinh tranh chấp về nghĩa vụ giao tài sản. Tuy nhiên, TCTD không có quyền cưỡng chế Bên bảo đảm giao TSBĐ. Đồng thời, theo khoản 5 Điều 198a Luật TCTD 2025, UBND cấp xã và Công an cấp xã tại nơi thu giữ TSBĐ chỉ có trách nhiệm bảo đảm an ninh, trật tự trong quá trình thu giữ, không tham gia vào việc cưỡng chế Bên bảo đảm giao TSBĐ. Do đó, câu hỏi đặt ra là liệu khi Bên bảo đảm không đồng ý bàn giao tài sản, TCTD có thể làm cách nào để tự mình thực hiện quyền thu giữ TSBĐ? Phải chăng trong trường hợp này, TCTD sẽ quay lại việc khởi kiện ra Tòa án có thẩm quyền để yêu cầu giải quyết tranh chấp về nghĩa vụ giao tài sản, tương tự như cơ chế từng được áp dụng theo Nghị quyết 03/2018/NQ-HĐTP ngày 15/5/2018 của Hội đồng Thẩm phán TAND tối cao (nay đã hết hiệu lực)?

Trên đây là bài viết “Từ 15/10/2025, Ngân hàng có thể tự thu giữ tài sản bảo đảm mà không cần khởi kiện?” mà TNTP gửi đến bạn đọc. Trường hợp có thông tin cần trao đổi, vui lòng liên hệ với TNTP để được giải đáp.

Trân trọng.

Công ty Luật TNHH Quốc Tế TNTP và Các Cộng Sự

  • Văn phòng tại Hồ Chí Minh:
    Phòng 1901, Tầng 19 Tòa nhà Saigon Trade Center, 37 Tôn Đức Thắng, Phường Bến Nghé, Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh
  • Văn phòng tại Hà Nội:
    Số 2, Ngõ 308 Tây Sơn, Phường Thịnh Quang, Quận Đống Đa, Hà Nội
  • Email: ha.nguyen@tntplaw.com


    Bản quyền thuộc về: Công ty Luật TNHH Quốc Tế TNTP và Các Cộng Sự