Thủ tục yêu cầu phản tố trong vụ án dân sự

Trong bài viết trước, TNTP giới thiệu tới quý độc giả về yêu cầu phản tố, quyền yêu cầu phản tố và thời hiệu đối với yêu cầu phản tố. Trong phạm vi bài viết này, TNTP tiếp tục giới thiệu tới quý độc giả một số quy định của pháp luật liên quan đến thủ tục yêu cầu phản tố trong vụ án dân sự và các kinh nghiệm khi sử dụng quyền phản tố này.
1.Thời điểm đưa ra yêu cầu phản tố
1.1 Thời điểm bắt đầu quyền đưa ra yêu cầu phản tố
Căn cứ theo quy định tại khoản 1 Điều 199 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015 (“BLTTDS”), trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được thông báo thụ lý vụ án, bị đơn có trách nhiệm nộp cho Tòa án văn bản thể hiện quan điểm của mình đối với yêu cầu của nguyên đơn kèm theo các tài liệu, chứng cứ và yêu cầu phản tố (nếu có). Do đó, thời điểm bị đơn được phép thực hiện quyền đưa ra yêu cầu phản tố được tính từ ngày nhận được thông báo thụ lý của Tòa án.
1.2 Thời điểm cuối cùng bị đơn được quyền đưa ra yêu cầu phản tố
Theo khoản 3 Điều 200 BLTTDS, bị đơn phải đưa ra yêu cầu phản tố trước phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải. BLTTDS không quy định cụ thể số lần mở phiên họp, nên Tòa án có thể mở nhiều phiên. Do đó, một số Tòa án vẫn chấp nhận yêu cầu phản tố đưa ra trước phiên họp cuối cùng.
Tuy nhiên, tại mục 14 phần IV Công văn số 01/2017/GĐ-TANDTC của Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn như sau: “Trường hợp tòa án tiến hành hòa giải nhiều lần thì lần hòa giải đầu tiên tòa án phải tiến hành theo đúng trình tự phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải quy định tại Điều 210 BLTTDS năm 2015. Đối với lần hòa giải tiếp theo, tòa án chỉ tiến hành kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ khi có tài liệu, chứng cứ mới và ghi vào biên bản hòa giải”. Từ nội dung hướng dẫn trên có thể thấy định hướng của Tòa án nhân dân tối cao là chỉ mở phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải đầu tiên theo đúng thủ tục tại Điều 210 BLTTDS dẫn tới việc các Tòa án có thể không chấp nhận yêu cầu phản tố của bị đơn nếu yêu cầu đó được nộp sau khi diễn ra phiên họp đầu tiên.
Hiện chưa có hướng dẫn trực tiếp liên quan đến nội dung này, do đó, để đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của mình, TNTP khuyến nghị bị đơn nên đưa ra yêu cầu phản tố trước phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải đầu tiên.
1.3 Đối với việc thay đổi hoặc bổ sung yêu cầu phản tô
Về thời điểm và quyền thay đổi, bổ sung yêu cầu phản tố, luật chưa quy định và Tòa án tối cao chưa hướng dẫn, gây khó khăn cho Thẩm phán. Tuy nhiên, trong quá trình giải quyết vụ án, Tòa án có thể vận dụng, áp dụng pháp luật tương tự như hướng dẫn về quyền thay đổi, bổ sung yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn. Do đó, bị đơn có thể thay đổi hoặc bổ sung yêu cầu phản tố khi có tình tiết mới chưa được xem xét, tương tự như trình tự, thủ tục thay đổi yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn theo hướng dẫn tại mục 7 phần IV Công văn số 01/2017/GĐ-TANDTC.
2.Trình tự, thủ tục đưa ra yêu cầu phản tố
Theo Điều 202 BLTTDS, thủ tục yêu cầu phản tố của bị đơn được thực hiện theo quy định của Bộ luật này tương tự như thủ tục khởi kiện của nguyên đơn. Thủ tục yêu cầu phản tố trong vụ án dân sự có một số bước cơ bản mà bị đơn cần phải tuân theo để đảm bảo yêu cầu của mình được xem xét hợp pháp và đúng quy định. Các bước này bao gồm:
- Bước 1: Nộp đơn yêu cầu phản tố
Bị đơn phải nộp đơn yêu cầu phản tố tại tòa án đang thụ lý yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn. Đơn yêu cầu phản tố cần nêu rõ: yêu cầu của bị đơn đối với nguyên đơn, lý do yêu cầu phản tố, các tình tiết liên quan và chứng cứ kèm theo (nếu có).
- Bước 2: Nộp tạm ứng án phí đối với yêu cầu phản tố
Tòa án sẽ xem xét yêu cầu phản tố của bị đơn để đảm bảo rằng yêu cầu này có liên quan đến vụ án chính và đáp ứng các điều kiện pháp lý. Theo đó, Thẩm phán sẽ thông báo ngay cho bị đơn về nghĩa vụ nộp án phí (nếu có). Bị đơn tiến hành nộp án phí theo thông báo của Tòa án.
- Bước 3: Thụ lý và giải quyết yêu cầu phản tố
Tòa án thụ lý yêu cầu phản tố sau khi bị đơn nộp đầy đủ tạm ứng án phí. Sau khi yêu cầu phản tố được thụ lý, tòa án sẽ đưa ra các quyết định liên quan đến việc giải quyết yêu cầu phản tố.
3.Kinh nghiệm đưa ra yêu cầu phản tố
Trong quá trình đưa ra yêu cầu phản tố trong vụ án dân sự, có một số nguyên nhân dẫn đến những sai lầm có thể ảnh hưởng đến việc thụ lý yêu cầu. Dựa trên kinh nghiệm của chúng tôi về những nguyên nhân phổ biến dẫn tới việc yêu cầu phản tố không được thụ lý, TNTP gửi tới độc giả các lưu ý và đề xuất dưới đây:
Thứ nhất, sai lầm phổ biến nhất khi đưa ra yêu cầu phản tố là không đáp ứng đầy đủ các điều kiện theo quy định của pháp luật. Cụ thể, yêu cầu phản tố thường không đáp ứng các điều kiện về chủ thể, quyền phản tố, thẩm quyền giải quyết, thời hiệu và đặc biệt là các điều kiện để được thụ lý theo quy định tại khoản 2 Điều 200 BLTTDS. Giải pháp cho vấn đề này là yêu cầu phản tố do bị đơn đưa ra phải có sự liên quan rõ ràng đến nội dung chính của vụ án, hoặc phải có khả năng đối trừ nghĩa vụ, hoặc loại trừ một phần hoặc toàn bộ yêu cầu của nguyên đơn, giúp vụ án được giải quyết chính xác và nhanh chóng.
Thứ hai, bị đơn bỏ lỡ thời điểm đưa ra yêu cầu phản tố. Sự chậm trễ trong việc nộp yêu cầu phản tố có thể dẫn đến việc yêu cầu bị Tòa án từ chối thụ lý, gây bất lợi cho bị đơn trong quá trình giải quyết tranh chấp. Từ thực tiễn, bị đơn cần chuẩn bị yêu cầu phản tố sớm, đảm bảo nộp đúng thời hạn và tuân thủ đúng thủ tục pháp lý. Đối với thực trạng pháp luật chưa quy định rõ ràng về phiên họp kiểm tra kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải, bị đơn nên nộp yêu cầu phản tố trước phiên họp đầu tiên để đảm bảo tốt nhất quyền và lợi ích hợp pháp của mình.
Thứ ba, một sai lầm thường gặp khác là bị đơn không cung cấp đủ chứng cứ để chứng minh cho yêu cầu của mình. Chứng cứ đóng vai trò quyết định khi Tòa án xem xét yêu cầu phản tố, theo đó việc thiếu chứng cứ chứng minh có thể dẫn đến việc yêu cầu phản tố không được chấp nhận do không đủ cơ sở pháp lý. Vì vậy, bị đơn cần thận trọng trong việc thu thập và chuẩn bị đầy đủ chứng cứ có liên quan trực tiếp đến yêu cầu của mình. Điều này không chỉ làm tăng khả năng thụ lý của yêu cầu mà còn rút ngắn thời gian xét xử, bảo đảm quyền lợi của các bên liên quan.
Thứ tư, thẩm phán không xử lý đúng thủ tục giải quyết yêu cầu phản tố. Trong quá trình thực thi nhiệm vụ, một số trường hợp Thẩm phán chưa tuân thủ nghiêm ngặt các quy định về việc xử lý yêu cầu phản tố. Hệ quả của việc này có thể ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của bị đơn, đồng thời làm phát sinh thêm các vấn đề pháp lý cần giải quyết. Khi bị đơn không đồng ý với quyết định không thụ lý yêu cầu phản tố, họ có quyền khiếu nại quyết định này. Theo quy định tại Điều 502 BLTTDS, thời hiệu khiếu nại là 15 ngày kể từ ngày người khiếu nại nhận được hoặc biết được quyết định mà họ cho rằng có vi phạm pháp luật.
Hy vọng hai bài viết về yêu cầu phản tố trong vụ án dân sự của TNTP đã cung cấp các thông tin hữu ích đến quý độc giả. Để được hỗ trợ thêm thông tin chi tiết và tư vấn chuyên sâu, quý vị có thể liên hệ trực tiếp với TNTP.
Trân trọng,