Hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế là thỏa thuận mua bán hàng hóa có yếu tố nước ngoài, vì vậy việc xác định cơ quan có thẩm quyền giải quyết khi xảy ra tranh chấp cũng phức tạp hơn nhiều so với tranh chấp hợp đồng mua bán hàng hóa trong nước. Thẩm quyền giải quyết tranh chấp hợp đồng này được xác định dựa trên hai nguồn luật chính là Điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên và pháp luật quốc gia. Việc xác định thẩm quyền được căn cứ theo thứ tự như sau: Điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên sẽ được ưu tiên áp dụng, pháp luật Việt Nam sẽ được áp dụng nếu chưa có Điều ước quốc tế.

1. Thẩm quyền giải quyết tranh chấp Hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế theo quy định của Điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên

Theo quy định của các Điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên, mà cụ thể là các Hiệp định tương trợ tư pháp đã được Việt Nam ký kết thì thẩm quyền giải quyết tranh chấp hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế của Tòa án có thể được xác định theo một số tiêu chí như sau:

– Tòa án nơi ký kết hợp đồng hoặc nơi thực hiện hợp đồng: Trong trường hợp tranh chấp về hợp đồng, hợp đồng đã được ký kết hoặc sẽ được thực hiện trên lãnh thổ của Bên ký kết thì Tòa án của Bên ký kết đó có thẩm quyền giải quyết (Điều 18 Hiệp định tương trợ tư pháp Việt Nam – Trung Quốc, hiệu lực vào năm 1999);

– Tòa án nơi nguyên đơn thường trú hoặc có trụ sở: Đối với tranh chấp về hợp đồng, Toà án nơi nguyên đơn thường trú hoặc có trụ sở có thẩm quyền giải quyết nếu trên lãnh thổ của nước này có đối tượng tranh chấp hoặc tài sản của bị đơn (Điều 36 Hiệp định tương trợ tư pháp Việt Nam – Nga, hiệu lực vào năm 2012);

– Tòa án nơi bị đơn thường trú hoặc cư trú hoặc có trụ sở: Đối với tranh chấp liên quan đến hợp đồng, thẩm quyền giải quyết thuộc về Toà án nơi bị đơn thường trú hoặc có trụ sở (Điều 36 Hiệp định tương trợ tư pháp Việt Nam – Nga, hiệu lực vào năm 2012) hoặc Tòa án nơi bị đơn cư trú hoặc có trụ sở (Khoản 3 Điều 28 Hiệp định về tương trợ tư pháp Việt Nam – Triều Tiên, hiệu lực vào năm 2004).

2. Thẩm quyền giải quyết tranh chấp Hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế theo quy định của pháp luật Việt Nam

Theo quy định của pháp luật Việt Nam, thẩm quyền của Tòa án Việt Nam đối với các tranh chấp thương mại quốc tế nói chung và tranh chấp hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế nói riêng được xác định qua hai giai đoạn: (i) Xác định thẩm quyền giải quyết của Tòa án Việt Nam đối với tranh chấp; (ii) Xác định Tòa án Việt Nam cụ thể có thẩm quyền giải quyết tranh chấp.

2.1. Các tranh chấp Hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế thuộc thẩm quyền của Tòa án Việt Nam

Căn cứ khoản 1 Điều 469 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015, Tòa án Việt Nam sẽ có thẩm quyền chung giải quyết tranh chấp hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế trong các trường hợp sau:

– Bị đơn là cá nhân cư trú, làm ăn, sinh sống lâu dài tại Việt Nam. Ngoài các trường hợp hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế được ký kết giữa các doanh nghiệp thường thấy, việc hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế được ký kết giữa cá nhân với doanh nghiệp cũng khá phổ biến. Tòa án Việt Nam sẽ có thẩm quyền giải quyết tranh chấp hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế đối với những tranh chấp có bị đơn là người nước ngoài hoặc người Việt Nam cư trú, làm ăn, sinh sống lâu dài tại Việt Nam.

– Bị đơn là cơ quan, tổ chức có trụ sở tại Việt Nam hoặc có chi nhánh, văn phòng đại diện tại Việt Nam đối với các vụ việc liên quan đến hoạt động của chi nhánh, văn phòng đại diện của cơ quan, tổ chức đó tại Việt Nam. Tranh chấp hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án Việt Nam khi bị đơn là doanh nghiệp trong hai trường hợp sau: (i) Doanh nghiệp có trụ sở tại Việt Nam; hoặc (ii) Doanh nghiệp nước ngoài nhưng có chi nhánh, văn phòng đại diện tại Việt Nam.

– Bị đơn có tài sản trên lãnh thổ Việt Nam. Việc thực hiện tố tụng tại nơi có tài sản của bị đơn tạo điều kiện thuận lợi trong việc xử lý tài sản của bị đơn tại giai đoạn thi hành án.

– Vụ việc liên quan đến hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế mà việc xác lập, thay đổi, chấm dứt hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế đó xảy ra ở Việt Nam, đối tượng của hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế đó là tài sản trên lãnh thổ Việt Nam hoặc hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế được thực hiện trên lãnh thổ Việt Nam. Quy định này có hai cách hiểu. Một là, Tòa án Việt Nam có thẩm quyền giải quyết tranh chấp nếu tất cả các giai đoạn xác lập, thay đổi, chấm dứt quan hệ hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế đều xảy ra tại Việt Nam. Hai là, Tòa án Việt Nam sẽ có thẩm quyền giải quyết tranh chấp nếu một trong các giai đoạn trên xảy ra ở Việt Nam.

– Vụ việc xác lập, thay đổi, chấm dứt hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế đó xảy ra ở ngoài lãnh thổ Việt Nam nhưng có liên quan đến quyền và nghĩa vụ của cơ quan, tổ chức, cá nhân Việt Nam hoặc có trụ sở, nơi cư trú tại Việt Nam.

Bên cạnh đó, Điểm c Khoản 1 Điều 470 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015 đã thể hiện được tinh thần tôn trọng sự thỏa thuận của pháp luật dân sự khi quy định theo hướng Tòa án Việt Nam có thẩm quyền riêng biệt để giải quyết các tranh chấp liên quan đến hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế trong trường hợp được lựa chọn Tòa án Việt Nam để giải quyết theo pháp luật Việt Nam, Điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên và các bên đồng ý lựa chọn Tòa án Việt Nam để giải quyết tranh chấp.

2.2. Tòa án Việt Nam có thẩm quyền giải quyết các tranh chấp liên quan đến Hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế

Đối với các tranh chấp hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án Việt Nam thì Tòa án cụ thể có thẩm quyền sẽ được xác định như sau:

Căn cứ điểm b khoản 1 Điều 35, khoản 3 Điều 35 và điểm a Khoản 1 Điều 37 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015, tranh chấp hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế có ít nhất một bên đương sự ở nước ngoài hoặc tài sản ở nước ngoài hoặc cần ủy thác tư pháp cho cơ quan đại diện của Việt Nam ở nước ngoài, cho Tòa án, cơ quan có thẩm quyền của nước ngoài sẽ do Tòa án nhân dân cấp tỉnh giải quyết.

Trên đây là nội dung bài viết “Thẩm quyền giải quyết tranh chấp hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế tại Tòa án Việt Nam” mà chúng tôi gửi đến bạn đọc. Hi vọng bài viết nêu trên hữu ích đối với những ai đang quan tâm đến vấn đề này.

Trân trọng,