Các bản án, quyết định của Tòa án, phán quyết của Trọng tài và quyết định khác của các cơ quan nhà nước là cơ sở pháp lý quan trọng xác định quyền và nghĩa vụ giữa các chủ thể có tranh chấp. Tuy nhiên, giá trị thực tiễn của các quyết định này chỉ được phát huy khi và chỉ khi nghĩa vụ đó được các bên thực hiện. Do đó, để đảm bảo các bên nghiêm chỉnh chấp hành, cơ quan thi hành án sẽ sử dụng quyền lực nhà nước tiến hành cưỡng chế thi hành án khi người phải thi hành án có điều kiện thi hành án nhưng không tự nguyện thực hiện nghĩa vụ sau khi hết thời hạn quy định. Trong bài viết này, TNTP sẽ trình bày quy định chung về cưỡng chế thi hành án dân sự.

1. Cưỡng chế thi hành án là gì?

Theo quy định của pháp luật hiện hành, cưỡng chế thi hành án dân sự có thể được hiểu là việc cơ quan thi hành án và Chấp hành viên sử dụng quyền lực nhà nước để thực hiện biện pháp cưỡng chế thi hành án đối với người phải thi hành án và những người có quyền và nghĩa vụ liên quan nhằm bảo đảm thi hành các quyền, nghĩa vụ đã được xác định trong bản án, quyết định, phán quyết của Tòa án, Trọng tài và chủ thể có thẩm quyền khác.

Điều 45 Luật Thi hành án dân sự 2008, sửa đổi bổ sung năm 2014 (“Luật Thi hành án”) quy định kể từ ngày người phải thi hành án nhận được hoặc được thông báo hợp lệ quyết định thi hành án, người phải thi hành án phải tự nguyện thi hành án trong vòng 10 ngày. Sau thời gian này, cơ quan thi hành sẽ cưỡng chế nếu người phải thi hành án có điều kiện thi hành án.

2. Thông báo cưỡng chế và thời gian không được cưỡng chế thi hành án

Việc cưỡng chế thi hành án không được thực hiện một cách tùy tiện mà phải tuân thủ các nguyên tắc và thủ tục luật định. Trong đó bao gồm việc thông báo cưỡng chế cho các bên liên quan và không thực hiện cưỡng chế trong các khoảng thời gian đặc biệt.

• Thông báo cưỡng chế thi hành án: Theo quy định tại Điều 39 Luật Thi hành án, quyết định cưỡng chế thi hành án phải được Chấp hành viên thông báo đến đương sự, người có quyền, nghĩa vụ liên quan trong thời hạn 03 ngày làm việc kể từ ngày ra quyết định, trừ trường hợp ngoại lệ là khi đương sự có các hành vi nhằm trốn tránh nghĩa vụ được quy định tại khoản 2 Điều này. Việc thông báo này nhằm mục đích để họ biết việc cưỡng chế và thực hiện quyền, nghĩa vụ theo nội dung quyết định.

• Thời gian không được cưỡng chế thi hành án: Nhằm đảm bảo trật tự xã hội, tôn trọng thời gian nghỉ ngơi của công dân và các giá trị văn hóa, truyền thống, pháp luật quy định những khoảng thời gian sau đây cơ quan thi hành án dân sự không được tiến hành các hoạt động cưỡng chế:

– Thời gian trong ngày từ 22 giờ đêm đến 06 giờ sáng ngày hôm sau;
– Ngày nghỉ và ngày lễ theo quy định.

Ngoài ra, riêng đối với cưỡng chế thi hành án có huy động lực lượng, cơ quan thi hành án không tổ chức cưỡng chế trong các khoảng thời gian sau:

– Thời gian 15 ngày trước và sau Tết Nguyên Đán;
– Các ngày truyền thống của đối tượng chính sách mà người phải thi hành án thuộc diện đó;
– Các trường hợp khác mà việc cưỡng chế thi hành án ảnh hưởng nghiêm trọng đến an ninh, chính trị, trật tự an toàn xã hội, phong tục, tập quán tại địa phương.

3. Xử lý một số trường hợp đặc biệt khi cưỡng chế thi hành án

3.1. Tài sản thi hành án là tài sản chung

Khi cưỡng chế thi hành án tài sản thuộc sở hữu chung (chẳng hạn như tài sản phát sinh trong thời kỳ hôn nhân của vợ chồng), bước đầu tiên cần xác định được phần quyền sở hữu của người phải thi hành án trong khối tài sản chung đó.

Trước khi cưỡng chế, Chấp hành viên sẽ thông báo cho cả người phải thi hành án và những người đồng sở hữu tài sản chung. Mục đích của việc này là để các bên tự thỏa thuận phân chia tài sản thuộc sở hữu chung hoặc yêu cầu Tòa án giải quyết việc phân chia.

Sau thời hạn 30 ngày kể từ khi nhận được thông báo, nếu các bên không thỏa thuận, có thỏa thuận nhưng không đạt được thỏa thuận hoặc thỏa thuận đạt được là thỏa thuận vi phạm pháp luật Điều 6 Luật Thi hành án, đồng thời, không yêu cầu Tòa án giải quyết, Chấp hành viên sẽ thông báo cho người được thi hành án. Kể từ ngày nhận được thông báo, người được thi hành án có thời hạn 15 ngày để yêu cầu Tòa án xác định phần quyền sở hữu của người phải thi hành án trong khối tài sản chung. Trường hợp người được thi hành án cũng không yêu cầu Tòa án giải quyết, để tiếp tục tiến hành thi hành án, Chấp hành viên sẽ yêu cầu Tòa án giải quyết.

Sau khi xác định được phần sở hữu của người phải thi hành án, Chấp hành viên sẽ tiến hành cưỡng chế dựa trên việc tài sản chung là tài sản có thể chia được hay là tài sản không thể chia được. Đối với tài sản có thể chia được, Chấp hành viên sẽ cưỡng chế phần tài sản thuộc sở hữu của người phải thi hành án. Đối với tài sản không thể chia được, Chấp hành viên cưỡng chế toàn bộ tài sản và thanh toán cho các chủ sở hữu còn lại giá trị phần tài sản mà họ có quyền sở hữu từ số tiền thu được sau khi xử lý tài sản.

3.2. Tài sản thi hành án là đối tượng tranh chấp

Trong quá trình cưỡng chế, có thể phát sinh trường hợp người thứ ba tranh chấp về tài sản phải thi hành án (Ví dụ: Tranh chấp quyền sở hữu, quyền sử dụng tài sản thi hành án). Đối với trường hợp này, theo khoản 1 Điều 75 Luật Thi hành án, Chấp hành viên có trách nhiệm thông báo cho đương sự (bao gồm người phải thi hành án và người được thi hành án) và người đang có tranh chấp về quyền khởi kiện tại Tòa án hoặc đề nghị cơ quan có thẩm quyền khác giải quyết tranh chấp.

Trong thời hạn 30 ngày kể từ ngày nhận được thông báo, nếu các bên khởi kiện hoặc đề nghị cơ quan có thẩm quyền giải quyết tranh chấp, việc thi hành án đối với tài sản đó sẽ được Chấp hành viên thực hiện theo quyết định giải quyết tranh chấp. Ngược lại, Chấp hành viên sẽ xử lý tài sản đó để thi hành án nếu các bên không tiến hành khởi kiện hoặc yêu cầu cơ quan có thẩm quyền giải quyết trong thời hạn 30 ngày nêu trên.

Trên đây là bài viết “Cưỡng chế thi hành án dân sự” mà TNTP gửi tới Quý bạn đọc. Hy vọng bài viết sẽ hữu ích với độc giả quan tâm tới vấn đề này.

Trân trọng.