Thông thường, trong một quan hệ nghĩa vụ, bên có nghĩa vụ sẽ phải thực hiện nghĩa vụ với bên có quyền và bên có quyền sẽ có quyền yêu cầu bên có nghĩa vụ thực hiện nghĩa vụ. Tuy nhiên, trên thực tế, khi quyền và nghĩa vụ của các bên vẫn còn hiệu lực, bên có quyền và bên có nghĩa vụ có thể chuyển giao quyền, chuyển giao nghĩa vụ của mình cho bên thứ ba thông qua thỏa thuận và theo quy định pháp luật. Trong bài viết này, luật sư của TNTP sẽ phân tích quy định tại Bộ luật Dân sự 2015 (“BLDS 2015”) về chuyển giao quyền yêu cầu và chuyển giao nghĩa vụ.
1. Chuyển giao quyền yêu cầu
• Chuyển giao quyền yêu cầu là việc bên có quyền yêu cầu thực hiện nghĩa vụ chuyển giao quyền yêu cầu của mình cho bên thế quyền theo thỏa thuận. Đồng thời, việc chuyển giao quyền yêu cầu không cần có sự đồng ý của bên có nghĩa vụ (Quy định pháp luật về chuyển giao quyền yêu cầu được quy định tại Điều 365, Điều 366, Điều 367, Điều 368 và Điều 369 BLDS 2015).
• Về trường hợp không được chuyển giao quyền yêu cầu, bao gồm: (1) Quyền yêu cầu cấp dưỡng, yêu cầu bồi thường thiệt hại do xâm phạm đến tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, uy tín; và (2) Bên có quyền và bên có nghĩa vụ có thỏa thuận hoặc pháp luật có quy định về việc không được chuyển giao quyền yêu cầu.
Về cơ bản, những quyền không được chuyển giao là những quyền mà chỉ riêng người có quyền được hưởng thì mới có ý nghĩa về mặt thực tiễn. Chẳng hạn như quyền được cấp dưỡng thì chỉ có ý nghĩa đối với người được cấp dưỡng, quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại do xâm phạm sức khỏe thì chỉ có ý nghĩa đối với người đã bị xâm phạm sức khỏe để bù đắp lại những tổn thất về sức khỏe mà họ phải gánh chịu.
Ngoài ra, về nguyên tắc, việc chuyển giao quyền cón không được thực hiện được khi pháp luật cấm và không trái đạo đức xã hội.
• Về hậu quả pháp lý sau khi quyền yêu cầu được chuyển giao: Về mặt nguyên tắc lẫn quy định pháp luật, sau khi chuyển giao quyền yêu cầu, người thế quyền sẽ đương nhiên trở thành bên có quyền yêu cầu. Khi đó, với yêu cầu đã chuyển giao, bên thế quyền sẽ có quyền yêu cầu bên có nghĩa vụ thực hiện nghĩa vụ với mình. Đồng thời, người chuyển giao quyền yêu cầu không phải chịu trách nhiệm về khả năng thực hiện nghĩa vụ của bên có nghĩa vụ sau khi chuyển giao quyền yêu cầu, trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác.
Lưu ý: Riêng đối với các trường hợp quyền yêu cầu thực hiện nghĩa vụ có biện pháp bảo đảm, việc chuyển giao quyền yêu cầu bao gồm cả biện pháp bảo đảm đó.
• Về nghĩa vụ của bên chuyển giao quyền yêu cầu, bên chuyển giao quyền yêu cầu có các nghĩa vụ sau đây:
– Nghĩa vụ thông báo: Người chuyển giao quyền yêu cầu phải thông báo bằng văn bản cho bên có nghĩa vụ biết về việc chuyển giao quyền yêu cầu, trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác. Trường hợp bên chuyển giao quyền yêu cầu không thông báo về việc chuyển giao quyền mà phát sinh chi phí cho bên có nghĩa vụ thì bên chuyển giao quyền yêu cầu phải thanh toán chi phí này.
– Nghĩa vụ cung cấp thông tin và chuyển giao giấy tờ: Người chuyển giao quyền yêu cầu phải cung cấp thông tin cần thiết, chuyển giao giấy tờ có liên quan tới việc chuyển giao cho người thế quyền.
• Về quyền từ chối của bên có nghĩa vụ:
Sau khi bên có quyền chuyển giao quyền yêu cầu cho bên thế quyền, bên có nghĩa vụ sẽ thực hiện nghĩa vụ đối với bên thế quyền thay vì thực hiện nghĩa vụ đối với bên chuyển giao quyền. Tuy nhiên, do việc chuyển giao quyền là giao dịch của bên chuyển giao quyền và bên thế quyền, bên có nghĩa vụ không có quyền tham gia vào nên để bảo vệ quyền lợi hợp pháp của bên có nghĩa vụ, pháp luật quy định bên có nghĩa vụ có thể từ chối yêu cầu của bên thế quyền trong một số trường hợp sau:
Thứ nhất, trường hợp bên có nghĩa vụ không được thông báo về việc chuyển giao quyền yêu cầu và người thế quyền không chứng minh về tính xác thực của việc chuyển giao quyền yêu cầu thì bên có nghĩa vụ có quyền từ chối việc thực hiện nghĩa vụ đối với người thế quyền.
Thứ hai, trường hợp bên có nghĩa vụ do không được thông báo về việc chuyển giao quyền yêu cầu mà đã thực hiện nghĩa vụ đối với người chuyển giao quyền yêu cầu thì người thế quyền không được yêu cầu bên có nghĩa vụ phải thực hiện nghĩa vụ đối với mình. Khi đó, bên thế quyền yêu cầu bên có nghĩa vụ thực hiện nghĩa vụ với mình thì bên có nghĩa vụ có quyền yêu cầu từ chối.
2. Chuyển giao nghĩa vụ
• Chuyển giao nghĩa vụ là việc bên có nghĩa vụ chuyền giao nghĩa vụ cho người thế nghĩa vụ trên cơ sở sự đồng ý của bên có quyền. Đây được coi là điểm khác biệt cơ bản giữa chuyển giao quyền và chuyển giao nghĩa vụ. Bởi, đối với chuyển giao nghĩa vụ, sau khi chuyển giao, bên thế nghĩa vụ thay thế bên có nghĩa vụ ban đầu thực hiện nghĩa vụ với bên có quyền nên khả năng thực hiện nghĩa vụ của bên thế quyền là yêu tố ảnh hưởng trực tiếp tới quyền lợi hợp pháp của bên có quyền. Vì vậy, pháp luật quy định chuyển giao nghĩa vụ phải có sự đồng ý của bên có quyền là hợp lý (Quy định pháp luật về chuyển giao nghĩa vụ được quy định cụ thể tại Điều 370, Điều 371 BLDS 2015).
• Về điều kiện chuyển giao nghĩa vụ: bên có nghĩa vụ chỉ được chuyển giao nghĩa vụ cho chủ thể thứ ba khi có sự đồng ý của bên có quyền trước khi chuyển giao.
• Về các trường hợp không được chuyển giao nghĩa vụ: trường hợp nghĩa vụ gắn liền với nhân thân của bên có nghĩa vụ hoặc pháp luật có quy định không được chuyển giao nghĩa vụ.
Cũng giống như trường hợp chuyển giao quyền yêu cầu, những nghĩa vụ mà chỉ có cá nhân, tổ chức nhất định thực hiện mới có ý nghĩa thực tiễn thì sẽ không được chuyển giao. Theo quy định pháp luật hiện hành, đó là những nghĩa vụ gắn liền với nhân thân của bên có nghĩa vụ.
• Về hậu quả pháp lý sau khi chuyển giao nghĩa vụ:
– Sau khi chuyển giao nghĩa vụ, người thế nghĩa vụ trở thành bên có nghĩa vụ. Khi đó, bên thế nghĩa vụ sẽ phải thực hiện nghĩa vụ đối với bên có quyền khi tới hạn hoặc khi bên có quyền yêu cầu.
– Đối với trường hợp chuyển giao nghĩa vụ có biện pháp bảo đảm, biện pháp bảo đảm đó chấm dứt, trừ trường hợp có thỏa thuận khác.
Điều này hoàn toàn hợp lý bởi biện pháp bảo đảm là biện pháp pháp lý đề bên chuyển giao nghĩa vụ bảo đảm khả năng thực hiện nghĩa vụ của mình đối với bên có quyền. Do đó, khi bên có nghĩa vụ đã chuyển giao nghĩa vụ cho bên thế quyền, biện pháp bảo đảm này không còn ý nghĩa. Trong trường hợp này, bên có quyền có thể yêu cầu bên thế quyền xác lập biện pháp bảo đảm khác để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ với bên có quyền.
Trên đây là nội dung bài viết “Chuyển giao quyền yêu cầu và chuyển giao nghĩa vụ” mà TNTP gửi đến quý độc giả. Hi vọng bài viết hữu ích đối với những ai đang quan tâm đến vấn đề này.
Trân trọng,