Trong quá trình giải quyết tranh chấp tại Tòa án, hoạt động chứng minh có vai trò quan trọng trong việc hỗ trợ Tòa án giải quyết nhanh chóng, đúng đắn và chính xác các tranh chấp dân sự. Các tài liệu, chứng cứ được đương sự giao nộp cũng như được Tòa án thu thập sẽ là cơ sở để xác định tình tiết, sự kiện của vụ việc, từ đó, Tòa án sẽ quyết định chấp nhận hoặc không chấp nhận yêu cầu của đương sự. Trong bài viết này, TNTP sẽ trình bày một số nội dung về chứng cứ và nghĩa vụ chứng minh khi khởi kiện tại Tòa án.
1. Chứng cứ trong tố tụng dân sự
Tại Điều 93 BLTTDS 2015, chứng cứ được quy định như sau:
• Chứng cứ là những gì có thật trên thực tế;
• Được đương sự và chủ thể liên quan giao nộp hoặc do Tòa án thu thập hợp pháp theo thủ tục quy định; và
• Được Tòa án sử dụng làm căn cứ xác định tình tiết khách quan trong vụ việc, xác định căn cứ và tính hợp pháp của các yêu cầu của đương sự.
2. Quy định về nghĩa vụ chứng minh
2.1 Nghĩa vụ chứng minh của đương sự
Căn cứ vào khoản 1 Điều 6, khoản 5, khoản 6, khoản 7 Điều 70 và Điều 91 BLTTDS 2015, nghĩa vụ chứng minh thuộc về các đương sự trong vụ việc. Cụ thể, khi đương sự đưa ra yêu cầu khởi kiện, yêu cầu phản tố hoặc yêu cầu độc lập thì đương sự sẽ có nghĩa vụ giao nộp chứng cứ cho Tòa án để làm cơ sở chứng minh cho yêu cầu của mình.
Tuy nhiên, để đảm bảo tính khả thi và phù hợp với tính chất từng vụ việc, một số ngoại lệ của nghĩa vụ chứng minh cũng được BLTTDS 2015 quy định như sau:
• Các trường hợp các đương sự được miễn trừ nghĩa vụ chứng minh (quy định tại khoản 1 và khoản 3 Điều 91 BLTTDS 2015):
– Người tiêu dùng khởi kiện, tổ chức xã hội tham gia tố tụng để bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng không phải chứng minh yếu tố lỗi của chủ thể kinh doanh hàng hóa, dịch vụ;
– Trong vụ án lao động, người lao động không cung cấp được tài liệu, chứng cứ do người sử dụng lao động đang lưu trữ, quản lý các tài liệu này thì người lao động không có nghĩa vụ cung cấp, giao nộp tài liệu, chứng cứ đó cho Tòa án mà nghĩa vụ này sẽ thuộc về người sử dụng lao động;
– Trong vụ án đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động thuộc trường hợp người sử dụng lao động không được thực hiện đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động hoặc trường hợp không được xử lý kỷ luật lao động mà người khởi kiện là người lao động thì người lao động không phải chứng minh. Khi đó, người sử dụng lao động sẽ phải chứng minh yêu cầu khởi kiện của người lao động là không có căn cứ.
• Các tình tiết, sự kiện trong vụ việc dân sự không phải chứng minh (quy định tại khoản 1 Điều 92 BLTTDS 2015) bao gồm:
– Các tình tiết, sự kiện rõ ràng mà mọi người đều biết, đồng thời, được Tòa án thừa nhận;
– Các tình tiết, sự kiện đã được xác định trong các văn bản có hiệu lực của cơ quan có thẩm quyền gồm bản án, quyết định của Tòa án, quyết định của cơ quan nhà nước; và
– Các tình tiết, sự kiện đã được ghi nhận trong văn bản và được công chứng, chứng thực hợp pháp. Thẩm phán có thể yêu cầu xuất trình bản gốc, bản chính để kiểm tra, đối chiếu khi phát hiệu các dấu hiệu nghi ngờ tính khách quan của văn bản công chứng, chứng thực hoặc những tình tiết, sự kiện này.
Như vậy, với vai trò là chủ thể trực tiếp tham gia quan hệ tranh chấp, nắm rõ nguyên nhân, diễn biến vụ việc, đương sự có nghĩa vụ chứng minh khi yêu cầu Tòa án bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình. Tuy nhiên, đối với một số đương sự ở vị trí yếu thế hơn so với bên tranh chấp còn lại cũng như đối với một số tình tiết, sự kiện đã được làm rõ trước đó, đương sự sẽ không phải chứng minh.
2.2 Thời hạn giao nộp tài liệu chứng cứ
Căn cứ vào khoản 4 Điều 96 BLTTDS 2015, đối với giai đoạn xét xử sơ thẩm, đương sự sẽ phải giao nộp tài liệu chứng cứ trong thời hạn được Thẩm phán ấn định nhưng việc ấn định này không được vượt quá thời hạn chuẩn bị xét xử theo quy định của BLTTDS.
Tuy nhiên, trong trường hợp có lý do chính đáng mà đương sự không giao nộp được trong thời hạn nêu trên thì Tòa án có thể chỉ chấp nhận chứng cứ khi đương sự chứng minh được lý do giao nộp chậm. Riêng đối với chứng cứ mà đương sự không thể biết được hoặc Tòa án không yêu cầu giao nộp trước đó thì đương sự được giao nộp tại phiên tòa sơ thẩm hoặc tại các giai đoạn tố tụng tiếp theo của việc giải quyết vụ việc.
2.3 Trường hợp Tòa án hỗ trợ thu thập chứng cứ
Trên thực tế, trong quá trình thu thập chứng cứ, đương sự có thể gặp khó khăn khi một số cơ quan, tổ chức, cá nhân đang quản lý, lưu trữ tài liệu không phối hợp hoặc từ chối cung cấp. Do đó, khoản 2 Điều 106 BLTTDS 2015 đã quy định trong trường hợp đương sự đã sử dụng các biện pháp cần thiết nhưng không thể thu thập được tài liệu, chứng cứ, đương sự có quyền đề nghị Tòa án tiến hành thu thập chứng cứ để phục vụ việc giải quyết vụ việc.
Trên đây là bài viết của TNTP về chủ đề “Chứng cứ và nghĩa vụ chứng minh khi khởi kiện tại Tòa án”. Hy vọng bài viết này sẽ hữu ích đối với quý độc giả.
Trân trọng.