Skip to main content

Author: TNTP LAW

ÁN LỆ SỐ 42/2021/AL Về quyền lựa chọn Tòa án giải quyết tranh chấp của người tiêu dùng trong trường hợp hợp đồng theo mẫu có thỏa thuận trọng tài

Trong thực tiễn, khi giao kết mua bán hàng hóa, dịch vụ với bên cung cấp, người tiêu dùng hay bắt gặp trong Hợp đồng (thường là Hợp đồng theo mẫu) có điều khoản lựa chọn Trọng tài làm nơi giải quyết tranh chấp khi có phát sinh. Thậm chí có Hợp đồng quy định cơ quan giải quyết tranh chấp là Trọng tài nước ngoài. Vì vậy, khi tranh chấp xảy ra và người tiêu dùng mong muốn đưa tranh chấp tới Tòa án có thẩm quyền giải quyết thì cơ sở pháp lý nào để Tòa án thụ lý giải quyết vụ án dân sự khi điều khoản giải quyết tranh chấp Hợp đồng theo mẫu quy định là cơ quan khác. Trong bài viết này, luật sư của TNTP sẽ phân tích và làm rõ hơn về nội dung của Án lệ số 42/2021/AL nhằm đưa ra cách xử lý và áp dụng cho các vụ án tương tự khác trong thực tiễn xét xử.

1. Tóm tắt vụ việc

a) Ngày 26/02/2017, bà Nguyễn Thị Long T và ông Nguyễn Hoàng S giao kết Hợp đồng sở hữu kỳ nghỉ số PBRC-S-064621 với Công ty TNHH Khu du lịch V. Theo đó, giá trị hợp đồng sở hữu kỳ nghỉ là 388.110.000đ; tuần nghỉ: Tuần thứ 16; Loại căn hộ nghỉ: Loại A.

b) Tính đến ngày 15/3/2017, bà Nguyễn Thị Long T, ông Nguyễn Hoàng S đã đặt cọc 300.488.000đ.

c) Tại thời điểm giao kết hợp đồng, do thời gian eo hẹp nên bà T, ông S không đọc kỹ hợp đồng sở hữu kỳ nghỉ đã giao kết. Đến ngày 26/4/2017, sau khi nhận được thư điện tử từ Công ty TNHH Khu du lịch V, bà Nguyễn Thị Long T, ông Nguyễn Hoàng S xem kỹ lại hợp đồng đã giao kết thì thấy có những điều khoản của Hợp đồng không hợp lý, nên đã chủ động đề nghị chấm dứt hợp đồng, nhưng không được phía Công ty TNHH Khu du lịch V chấp nhận.

d) Vì vậy, để bảo vệ quyền lợi của mình, bà Nguyễn Thị Long T và ông Nguyễn Hoàng S đã khởi kiện tại Tòa án với nội dung: Đề nghị Tòa án tuyên bố Hợp đồng sở hữu kỳ nghỉ số PBRC-S-064621 ngày 26/02/2017 vô hiệu và hoàn trả lại cho bà Nguyễn Thị Long T và ông Nguyễn Hoàng S số tiền đã nộp là 300.488.000đ. Lý do cụ thể:

• Công ty TNHH Khu du lịch V lừa dối khách hàng như mở hội thảo về du lịch nhưng không thực hiện nội dung chương trình hội thảo; về chủ đầu tư dự án là tỷ phú người Isarel, ông I; về vốn đầu tư để tạo tin tưởng cho những người muốn mua sở hữu kỳ nghỉ ký hợp đồng và đặt cọc.

• Công ty TNHH Khu du lịch V quảng cáo sản phẩm được thiết kế theo mô hình đã được giải thưởng Châu Á – Thái Bình Dương, nhưng khi xây dựng không theo mô hình đã được quảng cáo; giữa mô hình quảng cáo và mô hình thực tế là không như nhau; căn hộ du lịch chỉ thiết kế cho hai người, nhưng quảng cáo căn hộ dành cho 5 người; dự án tọa lạc tại Nha Trang.

• Công ty TNHH Khu du lịch V vi phạm điều cấm của pháp luật là doanh nghiệp có vốn đầu tư của người nước ngoài không được phép đưa người Việt Nam ra nước ngoài; định đoạt tiền đặt cọc khi không thuộc sở hữu của mình.

• Tiến độ xây dựng và đưa công trình vào hoạt động chính thức chậm so với cam kết, gây thiệt hại cho những người đã mua sở hữu kỳ nghỉ.

g) Theo bản tự khai, biên bản hòa giải và tại phiên tòa, đại diện theo ủy quyền của bị đơn, bà Phạm Thị Kiều H, trình bày:

• Hợp đồng sở hữu kỳ nghỉ số PBRC-S-064621 có hình thức và nội dung của hợp đồng hoàn toàn hợp pháp. Người giao kết hợp đồng đủ năng lực và thẩm quyền, không bị ép buộc và đã tự nguyện ký vào hợp đồng này.

• Những lý do mà nguyên đơn đưa ra làm căn cứ để cho rằng Hợp đồng sở hữu kỳ nghỉ số PBRC-S-064621 vô hiệu, Công ty TNHH Khu du lịch V không đồng ý. Lý do như sau:

– Thứ nhất, nguyên đơn cho rằng Công ty lừa dối người tiêu dùng là nhận định sai lệch dựa trên ý kiến chủ quan. Công ty khẳng định không hề bịa đặt hay cung cấp các thông tin sai sự thật tới người tiêu dùng. Công ty TNHH V có 02 thành viên góp vốn gồm ông Dương Tuấn A và Công ty E. Trong đó Công ty E nằm trong các doanh nghiệp thuộc quyền kiểm soát và sở hữu bởi ông I và các doanh nghiệp của ông. Như vậy, ông I là một nhà đầu tư của Công ty, thực hiện đầu tư thông qua các Công ty thuộc quyền kiểm soát của ông.

– Thứ hai, tại buổi giới thiệu, Công ty đã giải thích rõ đây là hoạt động mua kỳ nghỉ dưỡng, không phải là mua bất động sản nên không có chuyện gây nhầm lẫn về hợp đồng; khi làm việc với khách hàng Công ty giải thích và ghi rõ trong hợp đồng là mua kỳ nghỉ thứ bao nhiêu, ở loại khách sạn nào.

– Thứ ba, Công ty không thực hiện việc đưa khách hàng ra nước ngoài, ở đây là, nếu khách hàng nghỉ dưỡng không thích ở trong nước thì có thể trao đổi với nhau các kỳ nghỉ với khách hàng khác để ra nước ngoài nghỉ. Đây chỉ là hoạt động của khách hàng, Công ty không hề kinh doanh hoạt động đưa người Việt Nam ra nước ngoài du lịch mà chỉ thực hiện hỗ trợ khách hàng.

– Thứ tư, về khoản tiền đặt cọc, pháp luật không hạn chế thỏa thuận về sử dụng tiền cọc. Mục đích sử dụng tiền đặt cọc của Công ty không vi phạm điều cấm của pháp luật.

– Thứ năm, về tiến độ xây dựng và ngày Khai trương chính thức đã quy định rõ tại Điều 8 của Hợp đồng, là 36 tháng kể từ ngày ban hành giấy phép xây dựng cuối cùng của dự án và được quyền gia hạn thêm 6 tháng. Hiện tại, Giấy phép cuối cùng được cấp vào tháng 10/2018.

– Nếu nguyên đơn tiếp tục thực hiện hợp đồng sở hữu kỳ nghỉ đã giao kết, phía bị đơn có thể xem xét giảm giá hoặc hỗ trợ một số quyền lợi khác.

2. Nhận định của Tòa án

2.1. Tại điều 12.3 của Hợp đồng sở hữu kỳ nghỉ số PBRC-S-064621 ngày 26/02/2017, các bên có thỏa thuận chọn cơ quan và phương thức giải quyết tranh chấp là Trung tâm Trọng tài quốc tế Singapore (SIAC) theo các quy tắc trọng tài của SIAC có hiệu lực tại thời điểm giải quyết tranh chấp.

2.2. Tuy nhiên, Điều 17 Luật Trọng tài thương mại và hướng dẫn tại khoản 5 Điều 4 của Nghị quyết số 01/2014/NQ-HĐTP ngày 20/3/2014 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao quy định về thỏa thuận trọng tài không thể thực hiện được:

“Nhà cung cấp hàng hóa, dịch vụ và người tiêu dùng có điều khoản về thỏa thuận trọng tài được ghi nhận trong các điều kiện chung về cung cấp hàng hóa, dịch vụ do nhà cung cấp soạn sẵn quy định tại Điều 17 Luật Trọng tài thương mại nhưng khi phát sinh tranh chấp, người tiêu dùng không đồng ý lựa chọn Trọng tài giải quyết tranh chấp”.

2.3. Nội dung Án lệ: Hợp đồng sở hữu kỳ nghỉ số PBRC-S-064621 thuộc loại hợp đồng soạn sẵn do nhà cung cấp dịch vụ đưa ra, soạn sẵn quy định thỏa thuận trọng tài, nay nguyên đơn là người tiêu dùng không đồng ý lựa chọn trọng tài và yêu cầu Tòa án nhân dân thành phố Nha Trang giải quyết là phù hợp Điều 38 Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng, Điều 17 Luật Trọng tài thương mại và hướng dẫn tại khoản 5 Điều 4 của Nghị quyết số 01/2014/NQ-HĐTP ngày 20/3/2014 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao. Do đó, Tòa án nhân dân thành phố Nha Trang thụ lý và giải quyết tranh chấp là đúng thẩm quyền theo khoản 3 Điều 26, khoản 1 Điều 35 Bộ luật Tố tụng dân sự và còn trong thời hiệu khởi kiện quy định tại Điều 429 Bộ luật Dân sự năm 2015, Điều 184 Bộ luật Tố tụng dân sự.

2.4. Theo nội dung Hợp đồng sở hữu kỳ nghỉ số PBRC-S-064621 ngày 26/02/2017, nguyên đơn đã đăng ký mua kỳ nghỉ tuần thứ 16, loại căn hộ nghỉ dưỡng là A; thời gian bắt đầu từ năm có ngày khai trương chính thức đến hết thời hạn Dự án. Ông Nguyễn Hoàng S và bà Nguyễn Thị Long T có thể bán hoặc chuyển nhượng cho người khác hoặc được trao đổi kỳ nghỉ tại một số nơi trên thế giới (Quyền nghỉ dưỡng tùy chọn). Người mua phải nộp tiền nhiều đợt theo tiến độ xây dựng dự án. Cụ thể, bà Nguyễn Thị Long T và ông Nguyễn Hoàng S đã thanh toán được 03 đợt tiền đặt cọc với số tiền 310.488.000đ (được ưu đãi 10.000.000đ).

2.5. Ngày khai trương chính thức được xác định theo Điều 8 của Hợp đồng. Đó là, trong vòng 36 tháng kể từ ngày ban hành giấy phép xây dựng cuối cùng và được gia hạn thêm 6 tháng, Công ty sẽ gửi thông báo hoàn thành cho khách hàng.

2.6. Ngoài ra, hàng năm kể từ ngày khai trương chính thức, khách hàng phải thanh toán phí duy trì hay phí quản lý theo Điều 3 của Phụ lục C kèm theo hợp đồng quy định quyền, nghĩa vụ các bên, các điều khoản về thanh toán, đặt cọc, chuyển nhượng và nghĩa vụ phát sinh từ hợp đồng.

2.7. Hội đồng xét xử nhận thấy:

• Quá trình đầu tư và thực hiện dự án, Công ty TNHH Khu du lịch V đã tổ chức các buổi giới thiệu về mô hình nghỉ dưỡng tại một số địa phương, trong đó có Thành phố Hồ Chí Minh.

• Nguyên đơn là một trong số nhiều khách hàng được Công ty TNHH Khu du lịch V mời tham gia sự kiện ngày 26/02/2017.

• Tại buổi sự kiện, nguyên đơn đã trực tiếp giao kết Hợp đồng sở hữu kỳ nghỉ số PBRC-S-064621 ngày 26/02/2017 với Công ty TNHH Khu du lịch V. Và tính đến ngày 15/3/2017 nguyên đơn đã thanh toán tiền đặt cọc 310.488.000đ, trong đó được hưởng chính sách ưu đãi 10.000.000đ, số tiền thực nộp là 300.488.000đ.

• Trong thời gian chờ ngày khai trương chính thức, nguyên đơn cho rằng Hợp đồng sở hữu kỳ nghỉ số PBRC-S-064621 ngày 26/02/2017 có nhiều nội dung quy định không phù hợp, gây thiệt hại đến quyền lợi của nguyên đơn nên đã nhiều lần gặp phía Công ty TNHH Khu du lịch V nhằm thương thảo chấm dứt hợp đồng, nhưng không được phía Công ty TNHH Khu du lịch V đáp ứng. Vì vậy, nguyên đơn khởi kiện và yêu cầu Tòa án xem xét tuyên bố Hợp đồng sở hữu kỳ nghỉ số PBRC-S-064621 ngày 26/02/2017 vô hiệu với những lý do bị lừa dối, bị nhầm lẫn, vi phạm điều cấm của pháp luật, chậm tiến độ đưa công trình vào sử dụng.

2.8. Xét rằng:

• Trước hết, cần nhận thức rằng đây là một khái niệm sở hữu mới tại Việt Nam, trong đó người sở hữu được thực hiện quyền của mình trong khoảng thời gian nhất định (07 ngày) tại nơi đã mua kỳ nghỉ. Nó không đồng nghĩa với quyền sở hữu bất động sản. Sở hữu bất động sản vẫn thuộc chủ đầu tư là Công ty TNHH Khu du lịch V trong thời gian được cấp giấy phép hợp lệ.

Như vậy, sở hữu kỳ nghỉ mà ông Nguyễn Hoàng S và bà Nguyễn Thị Long T đã đặt cọc để giữ chỗ được coi là một loại (quyền) tài sản hình thành trong tương lai. Nhưng sau thời điểm giao kết hợp đồng, khi Khu du lịch được đưa vào sử dụng chính thức mới thuộc sở hữu của ông Nguyễn Hoàng S và bà Nguyễn Thị Long T. Việc các bên giao dịch đặt cọc, giữ chỗ để được sở hữu kỳ nghỉ (thực hiện hợp đồng) phù hợp quy định tại khoản 2 Điều 108, Điều 328 Bộ luật Dân sự năm 2015.

• Công ty TNHH V có 02 thành viên góp vốn gồm Công ty E và ông Dương Tuấn A. Trong đó, Công ty E nằm trong các doanh nghiệp thuộc quyền kiểm soát và sở hữu bởi ông I và các doanh nghiệp của ông. Như vậy, ông I là một nhà đầu tư (không phải chủ đầu tư) của Công ty, thực hiện đầu tư thông qua các Công ty thuộc quyền kiểm soát của ông là có thật.

• Vấn đề thiết kế mô hình đã được sự chấp nhận thay đổi của UBND tỉnh Khánh Hòa tại Công văn số 3590/UBND-XDNĐ ngày 27/5/2016 và đã được thông báo đến khách sở hữu kỳ nghỉ.

• Khi tham gia sự kiện và chính thức giao kết hợp đồng, người tham gia giao kết phải biết mình tham gia sự kiện gì, ký hợp đồng gì, nơi mình đầu tư nằm ở đâu? Địa điểm nơi xây dựng Khu du lịch được Công ty TNHH Khu du lịch công khai; trên các tài liệu, giấy tờ giao dịch cũng thể hiện địa điểm của khu ALMA Nha Trang. Không thể nói Công ty TNHH Khu du lịch V sử dụng tên gọi ALMA Nha Trang hay thư mời hội thảo lại chuyển sang giới thiệu mô hình và sản phẩm là một sự lừa dối khách hàng được.

Từ đó, không có chứng cứ cho thấy một trong các bên giao kết hợp đồng bị lừa dối như quy định tại Điều 127 Bộ luật Dân sự năm 2015. Do vậy, Hợp đồng sở hữu kỳ nghỉ số PBRC-S-064621 ngày 26/02/2017 và các phụ lục kèm theo hợp đồng phát sinh hiệu lực.

• Quy định tại khoản 4.4 Điều 4 của Hợp đồng về Quyền nghỉ dưỡng tùy chọn, Mục 2 Phụ lục B điều khoản và điều kiện của các quyền nghỉ dưỡng thực chất là trao đổi sở hữu kỳ nghỉ tại các Khu nghỉ dưỡng khác trên toàn thế giới, hoạt động dưới cùng cách thức như tại Khu nghỉ dưỡng, cùng tham gia mạng lưới trao đổi.

• Thực tế, nếu khách nghỉ dưỡng không nghỉ dưỡng tại Khu nghỉ dưỡng mình đã mua sở hữu kỳ nghỉ thì có thể trao đổi kỳ nghỉ với khách nghỉ dưỡng khác, kể cả nghỉ dưỡng ở nước ngoài. Đây là hoạt động của khách nghỉ dưỡng lựa chọn cơ hội nghỉ dưỡng thay thế từ một loạt các cơ hội nghỉ dưỡng mà Công ty trao đổi có thể cung cấp. Công ty TNHH Khu du lịch V không kinh doanh hoạt động đưa người Việt Nam ra nước ngoài du lịch, mà chỉ thực hiện hỗ trợ khách nghỉ dưỡng trong việc kết nối các địa điểm du lịch.

Phía nguyên đơn cũng không đưa ra được chứng cứ chứng minh Công ty TNHH Khu du lịch V đã đưa người ra nước ngoài bất hợp pháp.

• Theo quy định tại khoản 5.2 Điều 5 Hợp đồng sở hữu kỳ nghỉ số PBRC-S-064621 ngày 26/02/2017, khoản 2.2 Điều 2 Phụ lục C kèm theo Hợp đồng sở hữu kỳ nghỉ số PBRC-S-064621 ngày 26/02/2017 quy định về tiền đặt cọc, tiến độ thanh toán thì khoản tiền mà ông Nguyễn Hoàng S và bà Nguyễn Thị Long T đã thanh toán là tiền đặt cọc. Khi và chỉ khi sau ngày khai trương chính thức số tiền đã nộp mới chuyển thành một phần của khoản thanh toán.

Như vậy, khoản tiền đặt cọc của ông Nguyễn Hoàng S, bà Nguyễn Thị Long T là nhằm thực hiện hợp đồng theo quy định tại Điều 328 Bộ luật Dân sự năm 2015.

• Ngay phần trang bìa của Hợp đồng đã xác định “sở hữu kỳ nghỉ”, Điều 3 Hợp đồng sở hữu kỳ nghỉ số PBRC-S-064621 ngày 26/02/2017 ghi “Khách nghỉ dưỡng, theo hợp đồng này đồng ý thuê phòng từ Công ty…” và trong Phụ lục A phần III, IV nguyên đơn cũng xác nhận đặt chỗ loại căn hộ nghỉ dưỡng, tuần nghỉ dưỡng và khoản thanh toán tiền thuê phòng mà không phải là sở hữu bất động sản, hay thanh toán tiền bất động sản. Những quy định rõ như vậy trong hợp đồng, không thể bị nhầm lẫn với sở hữu bất động sản được. Lý do nguyên đơn nêu ra bị nhầm lẫn sở hữu bất động sản là không thể chấp nhận.

• Nguyên đơn cho rằng, khi tham gia ký kết hợp đồng, nhân viên tiếp thị của Công ty THHH Khu du lịch V đã không cho nguyên đơn thời gian hợp lý để nghiên cứu nội dung hợp đồng là vi phạm Điều 17 của Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng. Tuy nhiên, việc dành thời gian nghiên cứu hợp đồng là quyền của người tiêu dùng, việc nguyên đơn không sử dụng quyền này là xem như từ bỏ quyền của mình. Do vậy, việc nguyên đơn đã tự nguyện ký kết hợp đồng là có thật và tại phiên tòa, đại diện cho nguyên đơn vẫn khẳng định việc giao kết hợp đồng là hoàn toàn tự nguyện. Vì thế, hợp đồng phát sinh hiệu lực.

• Về tiến độ thực hiện dự án: Ngày khai trương chính thức được xác định theo Điều 8 của Hợp đồng là trong vòng 36 tháng kể từ ngày ban hành giấy phép xây dựng cuối cùng và được gia hạn thêm 6 tháng (nếu có), Công ty sẽ gửi thông báo hoàn thành cho khách hàng. Hiện nay, trong hồ sơ thể hiện 2 giấy phép xây dựng:

– Giấy phép xây dựng số 67/GPXD-SXD ngày 28/4/2017.
– Giấy phép xây dựng số 133/GPXD-SXD ngày 24/10/2018.

Như vậy, tính đến ngày xét xử, nếu căn cứ vào Giấy phép xây dựng ngày 28/4/2017 thì vẫn chưa quá 36 tháng kể từ ngày cấp giấy phép xây dựng. Trong khi đó, ngày 24/10/2018, Công ty TNHH Khu du lịch V tiếp tục được cấp giấy phép xây dựng. Do đó, không căn cứ cho rằng Công ty TNHH Khu du lịch V đã vi phạm tiến độ xây dựng, chậm đưa công trình vào hoạt động, vi phạm thời hạn bàn giao kỳ nghỉ cho các chủ sở hữu.

2.9. Đối với yêu cầu trả lại số tiền đặt cọc.

• Bản chất giấy xác nhận đặt chỗ là hợp đồng đặt cọc. Theo thỏa thuận thì số tiền đặt cọc trên sẽ chuyển thành số tiền thanh toán đợt 1 khi đến ngày khai trương chính thức. Như vậy, tại thời điểm xác lập Giấy xác nhận đặt chỗ thì số tiền trên là tiền đặt cọc để đặt chỗ nhằm đảm bảo thực hiện hợp đồng dịch vụ.

• Tại mục 4.1 của Hợp đồng cũng có quy định: “Khách nghỉ dưỡng, theo Hợp đồng này, cam kết không hủy ngang và đồng ý đặt chỗ để hưởng Quyền nghỉ dưỡng theo các điều khoản và điều kiện của Hợp đồng này. Để đặt chỗ, khách nghỉ dưỡng sẽ thanh toán tiền đặt cọc cho Công ty theo Điều 5.2 Phụ lục C”. Bị đơn không vi phạm hợp đồng, nguyên đơn cũng không có chứng cứ chứng minh bị đơn vi phạm hợp đồng đặt cọc; và các bên đã thỏa thuận Hợp đồng không bị hủy ngang; “Hợp đồng sở hữu kỳ nghỉ” không bị vô hiệu như yêu cầu của nguyên đơn, do đó, yêu cầu hoàn trả số tiền đặt cọc 300.488.000đ của nguyên đơn là không có căn cứ.

3. Bình luận Án lệ

• Đầu tiên, chúng ta cần hiểu Hợp đồng sở hữu kỳ nghỉ là loại hợp đồng gì. Theo Khoản 1 Điều 405 Bộ luật Dân sự 2015 quy định “Hợp đồng theo mẫu là hợp đồng gồm những điều khoản do một bên đưa ra theo mẫu để bên kia trả lời trong một thời gian hợp lý; nếu bên được đề nghị trả lời chấp nhận thì coi như chấp nhận toàn bộ nội dung hợp đồng theo mẫu mà bên đề nghị đã đưa ra.”

Theo Khoản 5 Điều 3 Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng 2010 quy định “Hợp đồng theo mẫu là hợp đồng do tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ soạn thảo để giao dịch với người tiêu dùng.”

Dựa trên vụ việc có thể thấy Hợp đồng sở hữu kỳ nghỉ số PBRC-S-064621 là Hợp đồng theo mẫu được Công ty THHH Khu du lịch V soạn sẵn để giao kết với người mua. Thông thường, loại hợp đồng này chứa đựng các điều khoản được bên cung cấp quy định sẵn và hiếm khi được điều chỉnh theo yêu cầu của bên được cung cấp. Vì vậy, loại hợp đồng này sẽ tồn tại những rủi ro pháp lý hoặc điều khoản bất lợi hay ràng buộc bên được cung cấp (mà trong trường hợp này là bà T và ông S) phải thực hiện theo hợp đồng do đã được giao kết, tức là bà T và ông S đã hoàn toàn đồng ý với nội dung các điều khoản tại hợp đồng theo mẫu (cụ thể là Hợp đồng sở hữu kỳ nghỉ số PBRC-S-064621).

• Tại Hợp đồng sở hữu kỳ nghỉ số PBRC-S-064621 có điều khoản thể hiện nội dung các bên đã thỏa thuận giải quyết tranh chấp tại trọng tài. Do đó, nếu một trong các bên đưa vụ việc tới Tòa án giải quyết thì Tòa án sẽ từ chối thụ lý vụ việc do các bên đã có thỏa thuận trọng tài.

Tuy nhiên, tại Điều 38 Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng 2010 quy định “…Trường hợp điều khoản trọng tài do tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ đưa vào hợp đồng theo mẫu hoặc điều kiện giao dịch chung thì khi xảy ra tranh chấp, người tiêu dùng là cá nhân có quyền lựa chọn phương thức giải quyết tranh chấp khác.”

Đồng thời, tại Điều 17 Luật Trọng tài thương mại 2010 quy định “Đối với các tranh chấp giữa nhà cung cấp hàng hóa, dịch vụ và người tiêu dùng, mặc dù điều khoản trọng tài đã được ghi nhận trong các điều kiện chung về cung cấp hàng hoá, dịch vụ do nhà cung cấp soạn sẵn thỏa thuận trọng tài thì người tiêu dùng vẫn được quyền lựa chọn Trọng tài hoặc Tòa án để giải quyết tranh chấp. Nhà cung cấp hàng hóa, dịch vụ chỉ được quyền khởi kiện tại Trọng tài nếu được người tiêu dùng chấp thuận.

Theo đó, pháp luật đã có những quy định ưu tiên và thực hiện đúng tinh thần bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng khi cho phép người tiêu dùng được tự do lựa chọn phương thức giải quyết tranh chấp, kể cả khi hợp đồng mẫu đã có quy định lựa chọn cơ quan giải quyết tranh chấp. Bên cung cấp nếu muốn khởi kiện tại Trọng tài theo nội dung của hợp đồng mẫu thì phải được sự chấp thuận của người tiêu dùng.

Tuy nhiên trên thực tế, do quan điểm khác nhau giữa các Tòa án mà diễn ra nhiều vụ việc bị Tòa án từ chối thụ lý yêu cầu của người tiêu dùng với lý do hợp đồng đã giao kết có thỏa thuận trọng tài. Do đó, Án lệ 42 được ra đời để góp phần bảo vệ tốt nhất quyền lợi của người tiêu dùng khi họ có quyền khởi kiện tới Tòa án ngay cả khi trong trường hợp hợp đồng mẫu có điều khoản thỏa thuận trọng tài. Điều này đã giúp người tiêu dùng được ưu tiên, được bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, đồng thời giúp họ thuận tiện và dễ dàng hơn trong lựa chọn cơ quan giải quyết tranh chấp để bảo vệ quyền lợi của mình.

Trên đây là bài viết của luật sư TNTP về “Án lệ số 42/2021/AL về quyền lựa chọn Tòa án giải quyết tranh chấp của người tiêu dùng trong trường hợp hợp đồng theo mẫu có thỏa thuận trọng tài”. Chúng tôi mong bài viết này sẽ giúp ích cho các quý bạn đọc.

Trân trọng,

Phạt vi phạm và bồi thường thiệt hại trong hợp đồng thương mại

Trong các hợp đồng thương mại, các bên tham gia hợp đồng thường áp dụng các chế tài để đảm bảo việc thực hiện nghĩa vụ hợp đồng và đảm bảo quyền, lợi ích hợp pháp của bên bị vi phạm nếu có hành vi vi phạm của bên còn lại gây ra. Trong bài viết này, luật sư của TNTP sẽ đưa ra phân tích về chế tài Phạt vi phạm và bồi thường thiệt hại trong hợp đồng thương mại.

1. Phạt vi phạm

• Theo quy định tại Điều 300 Luật Thương mại 2005, phạt vi phạm là việc bên bị vi phạm yêu cầu bên vi phạm trả một khoản tiền phạt do vi phạm hợp đồng nếu trong hợp đồng có thoả thuận, trừ các trường hợp miễn trách nhiệm theo quy định của pháp luật.

Như vậy, điều kiện tiên quyết để chế tài phạt vi phạm có hiệu lực là hợp đồng giữa các bên phải có nội dung thỏa thuận về việc phạt vi phạm. Khi đó, bên vi phạm nghĩa vụ của hợp đồng sẽ phải trả bên bị vi phạm một giá trị khoản tiền phạt mà các bên đã thỏa thuận. Tuy nhiên, phạt vi phạm sẽ không áp dụng trong các trường hợp miễn trách nhiệm theo quy định của pháp luật bao gồm:

– Xảy ra trường hợp miễn trách nhiệm mà các bên đã thoả thuận;

– Xảy ra sự kiện bất khả kháng;

– Hành vi vi phạm của một bên hoàn toàn do lỗi của bên kia;

– Hành vi vi phạm của một bên do thực hiện quyết định của cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền mà các bên không thể biết được vào thời điểm giao kết hợp đồng.

• Theo quy định tại Điều 301 Luật Thương mại 2005, Mức phạt đối với vi phạm nghĩa vụ hợp đồng hoặc tổng mức phạt đối với nhiều vi phạm do các bên thoả thuận trong hợp đồng, nhưng không quá 8% giá trị phần nghĩa vụ hợp đồng bị vi phạm. Trừ trường hợp phạt vi phạm khi có kết quả giám định sai.

Như vậy, tuy thỏa thuận phạt vi phạm do các bên tự thỏa thuận nhưng mức phạt vi phạm chỉ được giới hạn ở mức 8% giá trị phần nghĩa vụ hợp đồng bị vi phạm. Điều này nhằm mục đích đảm bảo chế tài phạt vi phạm không bị lợi dụng trong trường hợp một bên tham gia hợp đồng ở thế yếu hơn phải chấp nhận mức phạt vi phạm quá lớn do bên còn lại có ưu thế hơn đưa ra.

Đồng thời, cũng theo quy định tại Điều 301 Luật Thương mại 2005, mức phạt vi phạm 8% giá trị phần nghĩa vụ hợp đồng bị vi phạm sẽ không được áp dụng khi có căn cứ chứng minh kết quả giám định giá trị phần nghĩa vụ hợp đồng bị vi phạm do bên cung cấp dịch vụ giám định có kết quả sai. Điều này nhằm đảm bảo sự công bằng, bảo vệ quyền lợi của bên có trách nhiệm thanh toán tiền phạt vi phạm theo đúng giá trị phần nghĩa vụ hợp đồng bị vi phạm theo đúng sự thật khách quan.

2. Bồi thường thiệt hại

• Theo quy định tại Khoản 1 Điều 302 Luật Thương mại 2005, Bồi thường thiệt hại là việc bên vi phạm bồi thường những tổn thất do hành vi vi phạm hợp đồng gây ra cho bên bị vi phạm.

Có thể thấy khác với chế tài Phạt vi phạm, Bồi thường thiệt hại là chế tài luôn được áp dụng mà không bắt buộc cần có thỏa thuận áp dụng tại Hợp đồng, miễn là có thiệt hại thực tế xảy ra do hành vi vi phạm của bên vi phạm gây ra cho bên bị vi phạm thì bên vi phạm phải bồi thường thiệt hại.

• Theo khoản 2 Điều 302 Luật Thương mại 2005, giá trị bồi thường thiệt hại bao gồm giá trị tổn thất thực tế, trực tiếp mà bên bị vi phạm phải chịu do bên vi phạm gây ra và khoản lợi trực tiếp mà bên bị vi phạm đáng lẽ được hưởng nếu không có hành vi vi phạm.

Như vậy, có thể thấy khác với giá trị bồi thường thiệt hại chị bị giới hạn ở 8% giá trị phần nghĩa vụ hợp đồng bị vi phạm. Giá trị bồi thường thiệt hại sẽ được tính bằng toàn bộ giá trị tổn thất thực tế, trực tiếp mà bên bị vi phạm phải chịu nếu có đầy đủ căn cứ chứng minh các giá trị tổn thất này. Ngoài giá trị tổn thất thực tế, chế tài bồi thường thiệt hại còn áp dụng đối với khoản lợi trực tiếp mà bên bị vi phạm đáng lẽ được hưởng nếu không có hành vi vi phạm, đây là các khoản lợi mà sẽ đem lại giá trị trong tương lai nhưng do hành vi vi phạm xảy ra nên dẫn đến thiệt hại cho bên bị vi phạm khi không được hưởng các khoản lợi này.

• Chứng minh tổn thất:

Theo quy định tại Điều 304 Luật Thương mại 2005, Bên yêu cầu bồi thường thiệt hại phải chứng minh tổn thất, mức độ tổn thất do hành vi vi phạm gây ra và khoản lợi trực tiếp mà bên bị vi phạm đáng lẽ được hưởng nếu không có hành vi vi phạm.

Như vậy, để có căn cứ yêu cầu bồi thường thiết hại thì bên bị vi phạm có nghĩa vụ phải chứng minh tổn thất, mức độ tổn thất do hành vi vi phạm gây ra và khoản lợi trực tiếp mà bên bị vi phạm đáng lẽ được hưởng. Việc chứng minh này phải được thể hiện bằng văn bản, tài liệu có giá trị pháp lý và phải phản ánh đúng sự thật, khách quan, phải có sự liên quan và mối quan hệ nhân quả đối với hành vi vi phạm. Chứng cứ càng rõ ràng và chính xác thì quyền lợi của bên bị vi phạm mới được đảm bảo tốt nhất, và đồng thời cùng xác định nghĩa vụ bồi thường thiệt hại mà bên vi phạm gây ra.

Từ những nội dung trên, có thể thấy chế tài phạt vi phạm và bồi thường thiệt hại là các chế tài góp phần bảo vệ quyền lợi của bên bị ảnh hưởng bởi hành vi vi phạm. Điều này ràng buộc các bên phải thực hiện đúng các nghĩa vụ đã cam kết theo hợp đồng, góp phần bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của các bên khi có thiệt hại xảy ra do lỗi của bên còn lại.

Trên đây là bài viết của luật sư TNTP về chủ đề: “Phạt vi phạm và bổi thường thiệt hại trong hợp đồng thương mại”. Mong rằng bài viết trên đem lại giá trị cho các độc giả.

Trân trọng,

Những rủi ro khi mua nhà bằng hợp đồng góp vốn

Mua nhà là một quyết định quan trọng và thường được xem là một trong những khoản đầu tư lớn nhất trong cuộc đời. Tuy nhiên, thị trường bất động sản không phải lúc nào cũng ổn định và minh bạch. Một trong những hình thức giao dịch phổ biến nhưng tiềm ẩn nhiều rủi ro là việc mua nhà thông qua hợp đồng góp vốn. Trong bài viết này, TNTP sẽ gửi đến Quý bạn đọc bài viết với nội dung “Những rủi ro khi mua nhà bằng hợp đồng góp vốn”.

1. Hợp đồng góp vốn là gì?

• Hợp đồng góp vốn có thể hiểu là sự thỏa thuận giữa các bên để cùng góp tiền, tài sản để hợp tác làm công việc nào đó. Trong trường hợp này hợp đồng góp vốn là thỏa thuận giữa người mua và chủ đầu tư, trong đó người mua cam kết góp vốn vào một dự án bất động sản để đổi lấy quyền mua nhà trong tương lai. Thông thường, hợp đồng này được ký trước khi dự án hoàn thành, thậm chí trước khi dự án được cấp phép xây dựng.

• Thực tế rất nhiều doanh nghiệp áp dụng hình thức hợp đồng góp vốn tại thời điểm dự án đang chuẩn bị các thủ tục pháp lý. Các điều khoản trong hợp đồng góp vốn thường do chủ đầu tư và người góp vốn tự thỏa thuận với nhau. Hiện tại chưa có văn bản pháp luật điều chỉnh chi tiết và cụ thể đối với hợp đồng góp vốn. Vì thế, quyền lợi và nghĩa vụ của các bên tham gia góp vốn cũng chưa được chặt chẽ.

2. Những rủi ro khi mua nhà bằng hợp đồng góp vốn.

Như đã nêu ở trên, việc mua nhà đất bằng hợp đồng góp vốn hiện nay chưa được pháp luật điều chỉnh chặt chẽ, do đó việc người dân mua nhà đất thông qua hợp đồng góp vốn sẽ có khá nhiều rủi ro, cụ thể như sau:

a. Không bảo đảm pháp lý

• Dự án chưa đủ điều kiện mở bán: Dự án muốn đủ điều kiện mở bán cần đáp ứng đầy đủ những điều kiện theo quy định của pháp luật (Ví dụ như: chủ đầu tư phải có hồ sơ dự án đầu tư xây dựng nhà ở được phê duyệt theo quy định của pháp luật; dự án đầu tư xây dựng nhà ở phải thực hiện xong giải phóng mặt bằng theo tiến độ thực hiện dự án được phê duyệt; phải có biên bản bàn giao mốc giới của dự án; có thông báo đủ điều kiện được huy động vốn của Sở Xây dựng…). Tuy nhiên, trên thực tế có rất nhiều chủ đầu tư “lách luật”, mở bán khi chưa đủ điều kiện.

Cũng không ít những trường hợp khi dự án đủ điều kiện mở chủ đầu tư khởi kiện kiện chính các khách hàng để yêu cầu tuyên các hợp đồng góp vốn đã ký vô hiệu và trả lại tiền cho khách hàng. Khi đó họ có thể bán lại cho các khách hàng khác với giá cao gấp nhiều lần tại thời điểm huy động vốn.

• Hợp đồng không rõ ràng: Chủ đầu tư thường soạn Hợp đồng góp vốn có thể chứa những điều khoản mơ hồ, không minh bạch, khiến người mua gặp khó khăn trong việc đòi lại quyền lợi khi có tranh chấp.

b. Rủi ro về vấn đề xây dựng

Việc dự án bị chậm trễ hoặc dừng lại do vấn đề tài chính của chủ đầu tư là một trong những rủi ro lớn nhất khi mua nhà bằng hợp đồng góp vốn.

• Rủi ro về tiến độ xây dựng: Nếu chủ đầu tư thiếu vốn, gặp khó khăn về tài chính trong quá trình xây dựng, dự án thường sẽ không đảm bảo được tiến độ xây dựng như đã cam kết ban đầu. Trong trường hợp này, người mua thường phải chờ đợi hoặc thậm chí không thể lấy lại tiền đã đóng.

• Sử dụng vốn không đúng mục đích: Một số trường hợp chủ đầu tư thực hiện việc huy động vốn nhưng lại dùng số vốn đã huy động vào không đúng mục đích, hoặc dùng số vốn đã huy động vào mục đích khác, sử dụng cho các dự án phát triển nhà ở khác.

• Thay đổi thiết kế: Chủ đầu tư có thể thay đổi thiết kế hoặc thay đổi đổi chất lượng dự án mà không thông báo trước. Điều này dẫn đến việc người mua nhận được sản phẩm chất lượng không như mong đợi.

c. Rủi ro về quyền sở hữu

Hợp đồng góp vốn không đảm bảo quyền sở hữu nhà cho người mua. Vì dự án có thể chưa được hoàn thành, chưa được cấp phép, hoặc chủ đầu tư gặp vấn đề về tài chính, nên khả năng người mua có được nhà là rất thấp.

• Không có giấy chứng nhận quyền sở hữu: Người mua có thể gặp phải tình trạng dự án không được cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở do không đủ điều kiện pháp lý, chẳng hạn như đất dự án chưa được chuyển đổi mục đích sử dụng hoặc chưa hoàn tất các thủ tục giấy tờ cần thiết.

• Tranh chấp về quyền sở hữu: có những trường hợp chủ đầu tư đã thế chấp tài sản hoặc bán cho nhiều người khác nhau, dẫn đến tình trạng tranh chấp quyền sở hữu. Khi đó, người mua không chỉ mất quyền sở hữu mà còn gặp khó khăn trong việc đòi lại số tiền đã bỏ ra.

3. Giải pháp

• Người mua cần tìm hiểu về chủ đầu tư, dự án, và các quy định pháp lý liên quan trước khi ký hợp đồng góp vốn. Hãy kiểm tra xem dự án có được cấp phép xây dựng và có tuân thủ các quy định của pháp luật không.

• Tìm đến sự hỗ trợ của luật sư hoặc chuyên gia pháp lý để kiểm tra hợp đồng và tư vấn trước khi ký kết. Điều này có thể giúp người mua phát hiện các điều khoản không rõ ràng hoặc có thể gây rủi ro.

• Thường xuyên kiểm tra tiến độ dự án và giữ liên lạc với chủ đầu tư để cập nhật tình hình. Nếu có dấu hiệu bất thường, hãy tham khảo ý kiến pháp lý ngay lập tức.

Mua nhà bằng hợp đồng góp vốn là một lựa chọn có thể mang lại lợi ích nếu dự án thành công, nhưng cũng tiềm ẩn nhiều rủi ro. Người mua cần hiểu rõ những rủi ro này và thực hiện các biện pháp phòng ngừa để bảo vệ quyền lợi của mình. Hãy thận trọng và tìm hiểu kỹ trước khi đưa ra quyết định cuối cùng.

Trên đây là bài viết “Những rủi ro khi mua nhà bằng hợp đồng góp vốn” mà TNTP gửi đến bạn đọc. Trường hợp có vấn đề cần trao đổi, vui lòng liên hệ với TNTP để được giải đáp.

Trân trọng.

Quy định pháp luật về các phương thức xử lý tài sản thế chấp

Phương thức xử lý tài sản thế chấp có thể được các bên thỏa thuận ngay từ khi giao kết hợp đồng thế chấp tài sản, hoặc thỏa thuận khi phát sinh việc xử lý tài sản thế chấp. Sự thỏa thuận của các bên sẽ được ưu tiên áp dụng. Điều 303 BLDS 2015 quy định bốn phương thức xử lý tài sản thế chấp mà các bên có thể thỏa thuận áp dụng là: i) Bán đấu giá tài sản; ii) Bên nhận thế chấp tự bán tài sản; iii) Bên nhận thế chấp nhận chính tài sản thế chấp để thay thế cho việc thực hiện nghĩa vụ của bên thế chấp; iv) Phương thức khác (ví dụ như bù trừ nghĩa vụ trả nợ). Trong trường hợp các bên không có thỏa thuận về phương thức xử lý tài sản thế chấp thì tài sản thế chấp được bán đấu giá, trừ trường hợp luật có quy định khác. Trong bài viết này, TNTP sẽ phân tích về các phương thức xử lý tài sản thế chấp

1. Phương thức bán đấu giá tài sản

Trường hợp các bên thỏa thuận về xử lý tài sản thế chấp theo phương thức đấu giá và có thỏa thuận riêng về thủ tục đấu giá, tổ chức đấu giá tài sản thì việc xử lý tài sản thực hiện theo thỏa thuận này. Trường hợp không có thỏa thuận riêng thì thực hiện theo quy định của pháp luật về đấu giá tài sản. Việc bán đấu giá tài sản thế chấp phải bảo đảm tính công khai, minh bạch của quá trình xử lý tài sản (cung cấp thông tin đầy đủ liên quan đến tài tài sản đấu giá, phiên bán đấu giá, giá bán của tài sản luôn cao hơn hoặc bằng giá khởi điểm đã xác định, thủ tục bán tài sản được tiến hành một cách chuyên nghiệp).

Trên thực tế, để có thể xử lý được tài sản thì bên nhận thế chấp phải khởi kiện ra Tòa án nhân dân có thẩm quyền để yêu cầu cơ quan thi hành án tiến hành kê biên, phát mại tài sản thế chấp. Sau khi bản án, quyết định có hiệu lực, bên nhận thế chấp tiếp tục phải nộp hồ sơ yêu cầu thi hành án đến cơ quan thi hành án có thẩm quyền thể yêu cầu thi hành án. Sau đó, cơ quan thi hành án sẽ tiến hành cưỡng chế, kê biên tài sản để chuyển giao tài sản đã kê biên để bán đấu giá cho tổ chức bán đấu giá.

2. Phương thức bên nhận thế chấp tự bán tài sản

Trong trường hợp này, mức giá bán phải được sự đồng thuận của các bên nhằm tránh trường hợp một bên “dìm giá” và thu lợi bất chính từ việc xử lý tài sản. Các bên có thể đề nghị tổ chức định giá tài sản thẩm định giá trị tài sản làm căn cứ xác định giá bán tài sản. Trên thực tế, phương thức xử lý tài sản này chỉ có thể được thực hiện khi có sự thỏa thuận của các bên, bởi lẽ nếu bên nhận thế chấp tiến hành bán tài sản mà bên thế chấp không thực hiện thủ tục chuyển quyền sở hữu tài sản cho người mua thì việc chuyển nhượng không thể hoàn tất.

3. Phương thức bên nhận thế chấp nhận chính tài sản thế chấp để thay thế cho việc thực hiện nghĩa vụ của bên thế chấp

Bên nhận thế chấp được quyền nhận chính tài sản thế chấp để thay thế cho việc thực hiện nghĩa vụ của bên thế chấp nếu các bên có thỏa thuận khi xác lập giao dịch bảo đảm hoặc được bên thế chấp đồng ý bằng văn bản. Trường hợp giá trị của tài sản thế chấp lớn hơn giá trị của nghĩa vụ được bảo đảm thì bên nhận thế chấp phải thanh toán số tiền chênh lệch đó cho bên thế chấp; trường hợp giá trị tài sản thế chấp nhỏ hơn giá trị của nghĩa vụ được bảo đảm thì phần nghĩa vụ chưa được thanh toán trở thành nghĩa vụ không có bảo đảm. Bên thế chấp có nghĩa vụ thực hiện các thủ tục chuyển quyền sở hữu tài sản cho bên nhận thế chấp theo quy định của pháp luật. Xét dưới góc độ pháp lý, phương thức này khá hiệu quả bởi tiết kiệm được thời gian, chi phí để xử lý tài sản thế chấp nhưng trên thực tế, phương thức này không dễ thực hiện bởi lẽ bên nhận thế chấp có thể bị hạn chế đối với quyền nhận gán tài sản, hoặc bên thế chấp không tuân thủ các nghĩa vụ đã thỏa thuận khiến cho việc chuyển quyền sở hữu tài sản của bên nhận thế chấp gặp nhiều khó khăn.

4. Phương thức khác

Các bên có thể thỏa thuận một phương thức xử lý tài sản thế chấp khác với những phương thức đã nêu ở trên, miễn là sự lựa chọn này phù hợp với quy định pháp luật. Ví dụ, hai bên có thể thỏa thuận về việc bên nhận thế chấp bán tài sản thế chấp để cấn trừ khoản nợ. Trên thực tế, khi không đạt được sự đồng thuận về việc xử lý tài sản thế chấp giữa các bên, bên nhận thế chấp chỉ có cách khởi kiện vụ án ra Tòa án nhân dân có thẩm quyền, tiếp tục yêu cầu thi hành án sau khi có bản án, quyết định của Tòa án. Phương thức này phải tuân thủ trình tự, thủ tục của pháp luật tố tụng dân sự, pháp luật thi hành án và pháp luật khác có liên quan.

Trên đây là bài viết của TNTP về “Quy định pháp luật về các phương thức xử lý tài sản thế chấp”. Hy vọng bài viết này hữu ích với các độc giả.

Trân trọng,

TỔNG QUAN VÀ NHỮNG LƯU Ý KHI SOẠN THẢO HỢP ĐỒNG NGUYÊN TẮC

Hợp đồng nguyên tắc là một trong những loại hợp đồng khá phổ biến hiện nay trong các giao dịch kinh doanh thương mại. Trong quá trình xác lập giao dịch, các bên tham gia giao dịch sẽ căn cứ vào nhu cầu và khả năng của mình để ký kết loại Hợp đồng một cách phù hợp. Để hiểu rõ hơn về Hợp đồng nguyên tắc, TNTP gửi đến Quý bạn đọc bài viết với nội dung “Tổng quan và những lưu ý khi soạn thảo Hợp đồng nguyên tắc”.

I. Hợp đồng nguyên tắc là gì?

Hợp đồng nguyên tắc là một loại Hợp đồng thể hiện sự thỏa thuận giữa các bên mang tính chất định hướng về việc mua bán, cung ứng hàng hóa/dịch vụ. Trong Hợp đồng nguyên tắc, Các bên thường chỉ quy định những vấn đề chung nên Hợp đồng nguyên tắc thường được xem như 01 loại Hợp đồng khung hay Biên bảng ghi nhớ giữa Các bên. Những thỏa thuận trong Hợp đồng nguyên tắc thường được dùng làm cơ sở để Các bên ký kết Hợp đồng kinh tế hay bổ sung thêm các phụ lục cho Hợp đồng nguyên tắc.

II. Đặc điểm của Hợp đồng nguyên tắc

Hợp đồng nguyên tắc có những đặc điểm nổi bật sau:

• Thứ nhất, trong Hợp đồng nguyên tắc Các bên chỉ thỏa thuận những vấn đề chung và ràng buộc cho các bên với mục đích đảm bảo thực hiện một hoặc các giao dịch sẽ xảy ra trong tương lai.

• Thứ hai, pháp luật hiện hành không có định nghĩa rõ ràng và cụ thể về tên Hợp đồng nguyên tắc nhưng trên thực tế, Hợp đồng nguyên tắc được coi như một biên bản ghi nhớ hay thỏa thuận của các chủ thể tham gia hợp đồng về mua bán hàng hóa hay cung ứng dịch vụ hoặc các giao dịch dân sự, thương mại khác.

• Thứ ba, Thỏa thuận Hợp đồng trong Hợp đồng nguyên tắc mang tính định hướng, cơ sở ký hợp đồng kinh tế hoặc bổ sung phụ lục hợp đồng cho Hợp đồng nguyên tắc.

• Thứ tư, Thời gian ký kết Hợp đồng nguyên tắc có giá trị theo thời gian nên không phụ thuộc vào số lượng đơn hàng, giao dịch phát sinh.

• Thứ năm, Đối tượng áp dụng để ký Hợp đồng nguyên tắc bao gồm các công ty có quan hệ giao dịch thường xuyên, liên tục hay ở vị trí địa lý xa nhau.

III. Lưu ý khi soạn thảo Hợp đồng nguyên tắc

Do Hợp đồng nguyên tắc có những đặc điểm nổi bật nêu trên, theo đó, khi soạn thảo Các bên cần lưu ý những nội dung sau đây:

• Hợp đồng nguyên tắc về bản chất là hợp đồng dân sự, hợp đồng thương mại thông thường, chịu sự điều chỉnh của pháp luật dân sự cũng như pháp luật thương mại. Vì thế, nội dung của hợp đồng nguyên tắc trước hết phải đảm bảo đầy đủ các nội dung cơ bản của một hợp đồng như: thông tin của các bên tham gia hợp đồng, đối tượng của hợp đồng, quyền, nghĩa vụ và trách nhiệm của các bên, các cam kết chung, thời hạn của hợp đồng. Đồng thời, vì tính chất “nguyên tắc”, định hướng nên một số nội dung của hợp đồng nguyên tắc thường không cụ thể, chi tiết như các loại hợp đồng kinh tế khác. Tuy nhiên, nguyên tắc để xác định giá cả, phương thức thanh toán, vận chuyển, thời gian thực hiện,… vẫn cần được quy định, tránh trường hợp hợp đồng nguyên tắc đã ký nhưng không đạt được thỏa thuận chi tiết về giao dịch sau đó tại các hợp đồng, phụ lục hợp đồng hoặc các đơn đặt hàng cụ thể.

• Đối tượng giao dịch được đề cập tại hợp đồng nguyên tắc sẽ được điều chỉnh bởi các thỏa thuận trong hợp đồng. Do đó, dù mang tính nguyên tắc thì điều khoản về đối tượng cũng cần bao quát được phạm vi công việc dịch vụ hay hàng hóa/đặc trưng của hàng hóa giao dịch.

• Giá trị hợp đồng và nguyên tắc có thể được ấn định theo nhiều phương thức khác nhau. Thông thường, trong Hợp đồng nguyên tắc các bên sẽ thỏa thuận Phương thức thanh toán là (1) đối chiếu công nợ và thanh toán theo từng tháng hoặc (2) thanh toán dứt điểm từng đợt giao hàng hoặc sau khi hoàn thành dịch vụ.

• Thỏa thuận của hợp đồng nguyên tắc được áp dụng giải quyết các vấn đề phát sinh của giao dịch cụ thể. Do đó, hiệu lực của hợp đồng nguyên tắc có ảnh hưởng rất lớn đến các giao dịch cụ thể. Các giao dịch cụ thể được xem là những hợp đồng phụ, là bộ phận không tách rời của hợp đồng nguyên tắc. Theo quy định của pháp luật, việc chấm dứt hiệu lực của hợp đồng chính làm chấm dứt hợp đồng phụ, trừ trường hợp các bên có thỏa thuận hợp đồng phụ được thay thế hợp đồng chính. Như vậy, nếu hợp đồng nguyên tắc chấm dứt hiệu lực, các giao dịch cụ thể cũng đương nhiên bị chấm dứt nếu các bên không có thỏa thuận tiếp tục thực hiện giao dịch đó. Do đó, để hạn chế rủi ro, trong Hợp đồng nguyên tắc, Các bên nên quy định nội dung trường hợp Hợp đồng nguyên tắc chấm dứt hiệu lực sẽ không làm ảnh hướng đến các phụ lục đính kèm trừ khi Các Bên có thỏa thuận khác.

Trên đây là kiến thức tổng quan và những lưu ý khi soạn thảo Hợp đồng nguyên tắc. Hy vọng bài viết của chúng tôi là hữu ích cho các bạn và công việc của các bạn.

Trân trọng.

Quy định pháp luật về các trường hợp xử lý tài sản thế chấp

Xử lý tài sản thế chấp là một trong các căn cứ làm chấm dứt thế chấp, do đó việc xử lý tài sản thế chấp sẽ làm ảnh hưởng đến quyền và lợi ích của các chủ thể trong quan hệ thế chấp cũng như các chủ thể khác có liên quan đến tài sản. Căn cứ Điều 299 BLDS 2015, việc xử lý tài sản thế chấp được thực hiện trong ba trường hợp sau đây: i) Đến hạn thực hiện nghĩa vụ được bảo đảm mà bên có nghĩa vụ không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ; ii) Bên có nghĩa vụ phải thực hiện nghĩa vụ được bảo đảm trước thời hạn do vi phạm nghĩa vụ theo thỏa thuận hoặc theo quy định của luật; iii) Trường hợp khác do các bên thỏa thuận hoặc luật có quy định. Trong bài viết này, TNTP sẽ phân tích cụ thể các trường hợp xử lý tài sản thế chấp theo quy định pháp luật hiện hành.

1. Trường hợp thứ nhất: Đến hạn thực hiện nghĩa vụ được bảo đảm mà bên có nghĩa vụ không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ

Đối với trường hợp thứ nhất, nghĩa vụ được bảo đảm thường là các nghĩa vụ liên quan đến vay nợ, thanh toán; có thể bao gồm cả nghĩa vụ trả nợ lãi, tiền bồi thường thiệt hại và các chi phí khác. Trường hợp các bên không thỏa thuận rõ về phạm vi bảo đảm của tài sản thế chấp thì việc bất kỳ nghĩa vụ nào bị vi phạm cũng có thể dẫn đến trường hợp bên nhận thế chấp có quyền xử lý tài sản thế chấp.

2. Trường hợp thứ hai: Bên có nghĩa vụ phải thực hiện nghĩa vụ được bảo đảm trước thời hạn do vi phạm nghĩa vụ theo thỏa thuận hoặc theo quy định của luật

Đối với trường hợp thứ hai, tùy thuộc vào sự thỏa thuận của các bên mà khi bên có nghĩa vụ vi phạm thỏa thuận thì bên có quyền có thể thực hiện việc xử lý tài sản thế chấp để thu hồi nghĩa vụ được bảo đảm trước thời hạn. Ngoài trường hợp xử lý tài sản thế chấp theo thỏa thuận giữa các bên, pháp luật chuyên ngành cũng quy định những trường hợp tài sản thế chấp có thể bị xử lý dù nghĩa vụ bảo đảm chưa đến hạn hoặc không bị vi phạm. Ví dụ, trong trường hợp bên thế chấp đang thực hiện thủ tục phá sản tại Tòa án nhân dân có thẩm quyền, Tòa án có thể đình chỉ hợp đồng được bảo đảm chưa đến hạn và yêu cầu xử lý tài sản thế chấp để bảo đảm cho nghĩa vụ bị đình chỉ (Điểm b Khoản 1 Điều 53 Luật Phá sản năm 2014).

3. Trường hợp thứ ba: Trường hợp khác do các bên thỏa thuận hoặc luật có quy định

Đối với trường hợp thứ ba, trên cơ sở nguyên tắc cơ bản của pháp luật dân sự là tôn trọng thỏa thuận của các bên, các chủ thể có liên quan đến tài sản thế chấp có quyền thỏa thuận, thống nhất với nhau về việc xử lý tài sản thế chấp nhằm hướng đến lợi ích chung của mỗi bên. Tuy nhiên, việc thỏa thuận này không trái với đạo đức xã hội, không vi phạm quy định của pháp luật cũng như không ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của bên thứ ba. Ví dụ, các bên có thỏa thuận rằng khi bên nhận thế chấp phát hiện các nguy cơ làm tài sản thế chấp bị sụt giảm giá trị nghiêm trọng, bên nhận thế chấp có quyền yêu cầu xử lý tài sản thế chấp.

Trên đây là bài viết của TNTP về “Quy định pháp luật về các trường hợp xử lý tài sản thế chấp”. Hy vọng bài viết này sẽ hữu ích với các độc giả.

Trân trọng,

Nghị quyết 42/2017/QH14 về thí điểm xử lý nợ xấu của các tổ chức tín dụng hết hiệu lực sẽ như thế nào?

Để khắc phục các khó khăn, vướng mắc, bất cập về pháp lý thường nảy sinh trong quá trình xử lý nợ xấu, tài sản bảo đảm của tổ chức tín dụng, Quốc hội đã thông qua và ban hành Nghị quyết 42/2017/QH14 về thí điểm xử lý nợ xấu của các tổ chức tín dụng (“Nghị quyết 42”) có hiệu lực kể từ ngay 15/8/2017. Nghị quyết này đã giúp các tổ chức tín dụng thuận lợi hơn trong việc xử lý nợ xấu, tài sản bảo đảm và gần như được xem là “đặc quyền” trao cho các tổ chức tín dụng. Tuy nhiên, kể từ ngày 01/01/2024, Nghị quyết 42 đã hết hiệu lực, việc này sẽ tác động không nhỏ đến quyền lợi của ngành ngân hàng trong việc xử lý nợ xấu. Trong phạm vi bài viết này, TNTP sẽ phân tích rõ hơn hệ quả của việc Nghị quyết 42 hết hiệu lực.

1. Một số nội dung cơ bản nổi bật của Nghị quyết 42/2017/QH14

• Về điều kiện thu giữ tài sản bảo đảm:

Để giải quyết khó khăn, vướng mắc của tổ chức tín dụng trong quá trình xử lý tài sản bảo đảm liên quan đến việc giao tài sản bảo đảm để xử lý, tạo điều kiện cho tổ chức tín dụng thúc đẩy nhanh quá trình xử lý nợ xấu, tránh trường hợp chủ tài sản cố tình chây ỳ, chống đối kéo dài thời gian xử lý, Nghị quyết 42 cho phép tổ chức tín dụng được thực hiện quyền thu giữ tài sản bảo đảm khi có đầy đủ 05 điều kiện sau:

 Thứ nhất, Khi xảy ra trường hợp xử lý tài sản bảo đảm theo quy định tại Điều 299 Bộ luật Dân sự 2015. Theo Điều 299 Bộ luật dân sự, quyền xử lý tài sản bảo đảm phát sinh trong các trường hợp sau: (i) Đến hạn thực hiện nghĩa vụ được bảo đảm mà bên có nghĩa vụ không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ; (ii) Bên có nghĩa vụ phải thực hiện nghĩa vụ được bảo đảm trước thời hạn do vi phạm nghĩa vụ theo thỏa thuận hoặc theo quy định của pháp luật; và (iii) Trường hợp khác theo thỏa thuận hoặc luật có quy định.

 Thứ hai, tại hợp đồng bảo đảm có thỏa thuận về việc bên bảo đảm đồng ý cho tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài có quyền thu giữ tài sản bảo đảm của khoản nợ xấu khi xảy ra các trường hợp xử lý tài sản bảo đảm theo quy định pháp luật.

Quy định này bảo đảm việc thu giữ tài sản bảo đảm được thực hiện khi có sự thỏa thuận trước của các bên. Đồng thời, Nghị quyết 42 cũng quy định ”hợp đồng bảo đảm” theo Nghị quyết bao gồm cả văn bản khác ghi nhận thỏa thuận giữa các bên.

 Thứ ba, giao dịch bảo đảm, biện pháp bảo đảm đã đăng ký theo quy định pháp luật. Quy định này bảo đảm quyền của bên nhận bảo đảm đã phát sinh hiệu lực đối kháng với bên thứ 3.
 Thứ tư, tài sản bảo đảm không phải là tài sản tranh chấp trong vụ án đã được thụ lý nhưng chưa được giải quyết hoặc đang được giải quyết tại Tòa án có thẩm quyền; không đang bị Tòa án áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời; không đang bị kê biên hoặc áp dụng biện pháp bảo đảm thi hành án theo quy định của pháp luật.

 Thứ năm, tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, tổ chức mua bán, xử lý nợ xấu đã hoàn thành nghĩa vụ công khai thông tin theo quy định tại Nghị quyết.

• Về thực hiện thu giữ tài sản bảo đảm:

 Về ủy quyền thu giữ, để kiểm soát chặt chẽ việc thu giữ, Nghị quyết 42 quy định rõ việc ủy quyền thu giữ tài sản bảo đảm được thực hiện như sau: (i) tổ chức tín dụng chỉ được ủy quyền việc thu giữ tài sản bảo đảm cho công ty quản lý nợ và khai thác tài sản thuộc tổ chức tín dụng; (ii) tổ chức mua bán, xử lý nợ xấu chỉ được ủy quyền thu giữ tài sản bảo đảm cho tổ chức tín dụng bán nợ, công ty quản lý nợ và khai thác tài sản thuộc tổ chức tín dụng bán nợ.

Đồng thời, Nghị quyết 42 cũng quy định rõ tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, tổ chức mua bán, xử lý nợ xấu, tổ chức được ủy quyền thu giữ tài sản bảo đảm không được áp dụng các biện pháp vi phạm điều cấm của pháp luật trong quá trình thu giữ tài sản bảo đảm.

 Về trách nhiệm của cơ quan nhà nước, Nghị quyết 42 quy định: (i) Chính quyền địa phương các cấp và cơ quan Công an nơi tiến hành thu giữ tài sản bảo đảm, trong phạm vi chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của mình thực hiện việc bảo đảm an ninh, trật tự, an toàn xã hội trong quá trình thu giữ tài sản bảo đảm theo đề nghị của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, tổ chức mua bán, xử lý nợ xấu; (ii) Trường hợp bên bảo đảm không hợp tác hoặc không có mặt theo thông báo của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, tổ chức mua bán, xử lý nợ xấu, đại diện Ủy ban nhân dân cấp xã nơi tiến hành thu giữ tài sản bảo đảm tham gia chứng kiến và ký biên bản thu giữ tài sản bảo đảm; (iii) Bộ Công an có trách nhiệm chỉ đạo cơ quan Công an các cấp thực hiện nhiệm vụ giữ gìn an ninh, trật tự khi tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, tổ chức mua bán, xử lý nợ xấu thực hiện quyền thu giữ tài sản bảo đảm.

• Về áp dụng thủ tục rút gọn trong giải quyết tranh chấp liên quan đến tài sản bảo đảm tại Tòa án:

 Để rút ngắn quá trình giải quyết tranh chấp qua Tòa án, tăng hiệu quả hoạt động xử lý tài sản bảo đảm qua tòa án, Nghị quyết 42 cho phép Tòa án áp dụng thủ tục rút gọn để giải quyết tranh chấp về nghĩa vụ giao tài sản bảo đảm hoặc tranh chấp về quyền xử lý tài sản bảo đảm.

 Về điều kiện áp dụng thủ tục rút gọn, Nghị quyết 42 quy định thủ tục rút gọn sẽ được áp dụng khi có đầy đủ các điều kiện sau: (i) Trong hợp đồng bảo đảm có thỏa thuận về việc bên bảo đảm có nghĩa vụ giao tài sản bảo đảm của khoản nợ xấu cho bên nhận bảo đảm hoặc tổ chức tín dụng chi nhánh ngân hàng nước ngoài, tổ chức mua bán, xử lý nợ xấu có quyền xử lý tài sản bảo đảm; (ii) Giao dịch bảo đảm, biện pháp bảo đảm đã đăng ký theo quy định của pháp luật; (iii) Không có đương sự cư trú ở nước ngoài, tài sản tranh chấp ở nước ngoài, trừ trường hợp đương sự ở nước ngoài và đương sự ở Việt Nam có thỏa thuận đề nghị Tòa án giải quyết theo thủ tục rút gọn hoặc các đương sự giải trình được chứng cứ về quyền sở hữu hợp pháp tài sản và có thỏa thuận thống nhất về việc xử lý tài sản.

2. Ý nghĩa của Nghị quyết 42/2017/QH14 – “Đặc quyền” cho các tổ chức tín dụng

• Tạo hành lang pháp lý tương đối chắc chắn giúp ngành ngân hàng xử lý nợ xấu đạt được kết quả rất khả quan, đem lại lợi ích cho cả ngân hàng, doanh nghiệp và nền kinh tế.

• Hoàn thiện những thiếu sót trên cơ sở rà soát những vướng mắc và đưa ra nội dung phù hợp với thực tiễn có tác động tích cực đối với hệ thống ngân hàng trong việc xử lý nợ xấu.

• Thúc đẩy ý thức, trách nhiệm của người đi vay trong việc trả nợ cho ngân hàng.

3. Việc xử lý nợ xấu sẽ như thế nào khi Nghị quyết 42/2017/QH14 hết hiệu lực?

Nghị quyết 42 được ra đời với mục đích khắc phục các khó khăn, vướng mắc, bất cập về pháp lý trong quá trình xử lý nợ xấu của các tổ chức tín dụng, tuy nhiên Nghị quyết 42 đã hết hiệu lực kể từ ngày 01/01/2024. Việc Nghị quyết 42 hết hiệu lực đã tác động lớn đến khả năng xử lý nợ xấu của các tổ chức tín dụng, một trong số đó là việc các tổ chức tín dụng không còn quyền tự tiến hành thu giữ tài sản bảo đảm khi không có sự đồng thuận của bên thế chấp tài sản mà phải thông qua quá trình tố tụng để xử lý các tài sản thế chấp của bên nợ. Việc này đảm bảo quyền lợi của bên vay và đảm bảo không trao quá nhiều quyền cho ngân hàng được đơn phương tiến hành các hoạt động thu giữ tài sản.

Trên đây là bài viết của TNTP về “Nghị quyết 42/2017/QH14 về thí điểm xử lý nợ xấu của các tổ chức tín dụng hết hiệu lực sẽ như thế nào?”. Chúng tôi mong bài viết này sẽ giúp ích cho các quý bạn đọc.

Trân trọng,

Án lệ số 39/2020/AL Về xác định giao dịch dân sự có điều kiện vô hiệu do điều kiện không thể xảy ra

Trong pháp luật dân sự, Hợp đồng có điều kiện được hiểu là những hợp đồng mà khi giao kết, các bên thỏa thuận để xác định về một sự kiện mà khi sự kiện đó xảy ra thì hợp đồng mới phát sinh, thực hiện hoặc chấm dứt. Từ một tranh chấp phát sinh khi bên bán đã nhận được tiền nhưng sự kiện là điều kiện của hợp đồng lại không diễn ra nên bên mua yêu cầu bên bán phải hoàn trả tiền và yêu cầu tòa án không công nhận hợp đồng, Án lệ số 39/2020/AL đã đưa ra quan điểm để giải quyết các tranh chấp phát sinh có liên quan đến loại giao dịch có điều kiện này. Trong bài viết này, luật sư của TNTP sẽ phân tích nội dung của Án lệ số 39/2020/AL.

1. Tóm tắt vụ án

a) Năm 1982, gia đình cụ Nguyễn Viết L (chết năm 1985) và cụ Trần Vân C (chết năm 2011) cùng 03 người con là ông Lê Minh S, ông Lê Minh Đ, ông Lê Minh T2 được Ngân hàng Nhà nước Việt Nam cấp cho sử dụng tầng trệt phía trước căn nhà số 182 đường A, phường B, quận D, Thành phố Hồ Chí Minh.

b) Tháng 5-1989, cụ C cho Chi nhánh Công ty Du lịch T thuê một phần nhà có diện tích 50,85m2, vị trí góc 2 mặt tiền đường A – Đ để mở cửa hàng dịch vụ tổng hợp. Bà C1 khi đó lấy tư cách là cửa hàng trưởng, cùng chồng là ông Nguyễn Công H trực tiếp kinh doanh và đại diện cho Chi nhánh Công ty Du lịch T trả tiền thuê nhà tháng 6-1989 là 2,3 chỉ vàng 24K và trả tiếp tiền thuê từ tháng 7-1989 đến tháng 12-1992 là 75 chỉ vàng 24K, đợt một trả vào ngày 10-7-1989 là 35 chỉ vàng 24K, đợt hai trả 40 chỉ vàng vào ngày 01-9-1989. Tổng cộng cụ C nhận 7,5 lượng vàng 24K.

c) Tháng 12-1989, Chi nhánh Công ty Du lịch T kinh doanh không hiệu quả nên giao cho bà C1 tiếp tục kinh doanh và thực hiện việc trả tiền thuê cho đến hết tháng 02-2002. Kể từ tháng 3-2002 đến nay bà C1 và ông H vẫn ở tại phần diện tích này và không trả tiền thuê nhà, một phần nhà hiện do bà T1 sử dụng, một phần do bà K sử dụng.

d) Quá trình bà C1, ông H sử dụng nhà có xây dựng, sửa chữa nên phần diện tích đang tranh chấp có giá trị tính theo biên bản định giá ngày 22-01-2014 là 1.427.421.900 đồng. Đối với Hợp đồng liên kết số 05 ký ngày 20-5-1989 ký với Chi nhánh Công ty Du lịch T, nguyên đơn không yêu cầu giải quyết và rút yêu cầu buộc Công ty TNHH một thành viên Du lịch T trả 1,48 lượng vàng 24K tiền thuê nhà.

e) Do hai bên không có việc mua bán nhà và không còn quan hệ thuê nhà nên nguyên đơn yêu cầu Tòa án tuyên hủy bỏ bản cam kết do cụ Trần Vân C và bà Trần Thị C1 lập và ký ngày 10-7-1989; buộc bà C1, ông H trả ngay phần nhà đang ở nhờ. Đồng ý trả cho bà C1, ông H chi phí sửa chữa lại nhà là 64.105.000 đồng.

f) Bị đơn là ông Nguyễn Công H, bà Trần Thị C1 trình bày:

• Năm 1989, ông H, bà C1 có sang nhượng một phần diện tích khoảng hơn 40m2 nằm trong nhà 182 đường A, quận D của cụ Trần Vân C với giá 7,5 lượng vàng 24K, hai bên có viết giấy tay bán nhà vào ngày 10-7-1989, ông H, bà C1 đã giao đủ số vàng này cho cụ C, sau đó đưa thêm 05 chỉ, tổng cộng giá bán là 08 lượng vàng 24K. Phần diện tích sang nhượng có vị trí tại góc 2 mặt tiền đường A – Đ. Vào thời điểm đó, cụ C đang thuê căn nhà trên của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, nên chưa được cấp chủ quyền nhà, do đó hai bên chỉ viết giấy tay, không ký được hợp đồng mua bán.

• Sau đó, ông H, bà C1 đã sang nhượng lại cho bà Trần Thị Kim T1 một phần nhà có diện tích khoảng 16m2, việc sang nhượng với bà T1 chỉ thỏa thuận bằng miệng.

• Khoảng năm 2005, ông H, bà C1 có hợp tác kinh doanh với bà Lương Thị K tại phần diện tích trên.

• Theo bản cam kết giữa hai bên tại giấy viết tay ngày 10-7-1989 thì khi nào Nhà nước cho cụ C mua hóa giá nhà thì ông H, bà C1 phải trả tiền hóa giá phần diện tích đã sang nhượng và cụ C có trách nhiệm làm thủ tục chuyển quyền sở hữu phần diện tích đã sang nhượng cho ông H, bà C1. Đồng thời, căn cứ Luật Đất đai năm 2003 thì ông H, bà C1 đã sử dụng nhà và đất trên 25 năm nên phải được công nhận quyền sử dụng đất và nhà, nên yêu cầu công nhận việc chuyển nhượng nhà theo Bản cam kết ngày 10-7-1989 vì đây là giao dịch dân sự có điều kiện.

• Những người kế thừa quyền và nghĩa vụ của cụ C yêu cầu đòi nhà cho ở nhờ là không có cơ sở vì theo Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà thì cụ C chỉ có quyền sở hữu 167m2 còn phần diện tích trên cụ C không có quyền sở hữu, nên không có quyền khởi kiện, ông H, bà C1 không chấp nhận. Do tranh chấp phát sinh năm 1989 đã hết thời hiệu, nên yêu cầu đình chỉ vụ án.

• Việc sang nhượng một phần diện tích cho bà T1 và việc hợp tác kinh doanh với bà K không yêu cầu giải quyết. Quá trình sử dụng ông H, bà C1 có sửa chữa lại nhà với chi phí sửa chữa tính theo bản chiết tính là 64.105.000 đồng, trường hợp Tòa án không công nhận việc chuyển nhượng nhà thì yêu cầu phải trả lại số tiền đã sửa chữa này.

g) Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là bà Trần Thị Kim T1 trình bày:

• Bà T1 có sang nhượng lại của bà C1 một phần nhà số 182 đường A, phường B, quận D, Thành phố Hồ Chí Minh có diện tích khoảng 16m2 vào năm 1989, với giá 04 lượng vàng, việc sang nhượng không làm giấy tờ. Nay bà T1 yêu cầu phía cụ C phải có trách nhiệm làm thủ tục chuyển quyền sở hữu cho ông H, bà C1. Việc sang nhượng giữa bà T1 với ông H, bà C1 không yêu cầu Tòa án giải quyết.

• Đồng thời, theo bà T1 thì phần diện tích các bên đang tranh chấp là phần sử dụng chung của các hộ trong nhà 182 đường A, phường B, quận D, Thành phố Hồ Chí Minh, cụ C không có quyền sở hữu nên không có quyền khởi kiện.

h) Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là Công ty Quản lý kinh doanh nhà N do bà Phạm Thúy H1 đại diện trình bày:

Công ty Quản lý kinh doanh nhà N tiến hành bán nhà số 182 đường A, phường B, quận D, Thành phố Hồ Chí Minh vào năm 2001, trước khi bán có lập biên bản kiểm tra phần diện tích do từng hộ sử dụng. Theo nội dung biên bản thì phần diện tích nhà ở và đất ở các đương sự đang tranh chấp nằm trong lộ giới thuộc quyền sử dụng của chủ sở hữu (cụ C – đã chết) cho đến khi Nhà nước thu hồi để thực hiện dự án mở rộng lộ giới. Việc cụ C cho ở nhờ, cho thuê, chuyển nhượng là trái với quy định nên Công ty Quản lý nhà N không đồng ý. Yêu cầu xét xử theo quy định của pháp luật.

i) Tại Bản án dân sự sơ thẩm số 28/DS-ST ngày 27-7-2006, Tòa án nhân dân Quận 3, Thành phố Hồ Chí Minh quyết định:

• Hủy cam kết ngày 10-7-1989 giữa cụ C với ông H, bà C1.
• Ông H, bà C1, bà T1, bà K có trách nhiệm giao lại cho cụ C một phần tầng trệt nhà 182 đường A, phường B, quận D, Thành phố Hồ Chí Minh với diện tích 50,85m2.
• Cụ C trả ông H, bà C1: 08 lượng vàng đã nhận + 27,49 lượng vàng thiệt hại + 64.105.000 đồng tiền sửa chữa. Tổng cộng 35,49 lượng vàng và 64.105.000 đồng.

j) Nguyên đơn và bị đơn đều có đơn kháng cáo.
k) Tại Bản án dân sự phúc thẩm số 188/2007/DS-PT ngày 07-02-2007, Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh quyết định:

Sửa một phần Bản án sơ thẩm:

• Công nhận Hợp đồng mua bán nhà giữa cụ Trần Vân C với ông Nguyễn Công H, bà Trần Thị C1 theo giấy cam kết ngày 10-7-1989.
• Cụ C có trách nhiệm chuyển quyền sở hữu nhà cho ông H, bà C1.
• Ông H, bà C1 trả cụ C tiền hóa giá nhà 169.432.000 đồng.

l) Tại Quyết định số 138/QĐ-KNGĐT-V5 ngày 13-11-2007, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao kháng nghị bản án dân sự phúc thẩm nêu trên.

m) Tại Quyết định giám đốc thẩm số 01/2008/DS-GĐT ngày 25-01-2008, Tòa Dân sự Tòa án nhân dân tối cao quyết định: Hủy Bản án dân sự sơ thẩm số 28/DS-ST ngày 27-7-2006 của Tòa án nhân dân Quận 3 và hủy Bản án dân sự phúc thẩm số 188/2007/DS-PT ngày 07-02-2007 của Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh; giao hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân dân Quận 3 xét xử theo thủ tục sơ thẩm.

n) Tại Bản án dân sự sơ thẩm số 12/2014/pS-ST ngày 16-4-2014, Tòa án nhân dân Quận 3, Thành phố Hồ Chí Minh quyết định: Chấp nhận một phần yêu cầu của những người kế thừa quyền và nghĩa vụ của cụ Trần Vân C.

• Tuyên bố bản cam kết về việc chuyển nhượng quyền sử dụng một phần căn nhà số 182 đường A, phường B, quận D, Thành phố Hồ Chí Minh ký ngày 10-7-1989 giữa cụ Trần Vân C và bà Trần Thị C1 là vô hiệu.
• Buộc những người kế thừa quyền và nghĩa vụ của cụ Trần Vân C là bà Lê Thị Minh C2, ông Lê Minh S, ông Lê Minh Đ, ông Lê Minh T2 có trách nhiệm hoàn trả cho ông Nguyễn Công H, bà Trần Thị C1 số vàng đã nhận là 08 lượng vàng 24k = 276.320.000 đồng.
• Buộc những người kế thừa quyền và nghĩa vụ của cụ Trần Vân C là bà Lê Thị Minh C2, ông Lê Minh S, ông Lê Minh Đ, ông Lê Minh T2 có trách nhiệm hoàn trả cho ông Nguyễn Công H, bà Trần Thị C1 chi phí xây dựng, sửa chữa nhà là 64.105.000 đồng.
• Buộc những người kế thừa quyền và nghĩa vụ của cụ Trần Vân C là bà Lê Thị Minh C2, ông Lê Minh S, ông Lê Minh Đ, ông Lê Minh T2 có trách nhiệm bồi thường thiệt hại cho ông Nguyễn Công H, bà Trần Thị C1 số tiền là 575.550.950 đồng.
• Buộc ông Nguyễn Công H, bà Trần Thị C1, bà Trần Thị Kim T1, bà Lương Thị K phải có trách nhiệm giao trả cho những người kế thừa quyền và nghĩa vụ của cụ Trần Vân C là bà Lê Thị Minh C2, ông Lê Minh S, ông Lê Minh Đ, ông Lê Minh T2 phần diện tích nhà và đất trong căn nhà số 182 đường A, phường B, quận D, Thành phố Hồ Chí Minh gồm: Diện tích nhà và đất trong nhà chính có lầu, phù hợp quy hoạch là 8,11m2 + diện tích nhà và đất trong lộ giới là 42,74m2.

o) Tòa án cấp sơ thẩm còn quyết định về án phí và quyền kháng cáo của các đương sự.

p) Ngày 24/4/2014, ông Nguyễn Công H, bà Trần Thị C1, bà Trần Thị Kim T1 có đơn kháng cáo.

q) Ngày 28/4/2014, bà Lê Thị Minh C2 có đơn kháng cáo.

r) Tại Bản án dân sự phúc thẩm số 1515/2014/DS-PT ngày 01-12-2014, Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh quyết định:

Không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của bà Lê Thị Minh C2, bà Trần Thị C1, ông Nguyễn Công H và bà Trần Thị Kim T1, giữ nguyên bản án dân sự sơ thẩm.

s) Sau khi xét xử phúc thẩm, bị đơn là ông Nguyễn Công H, bà Trần Thị C1 có đơn đề nghị xem xét theo thủ tục giám đốc thẩm đối với Bản án dân sự phúc thẩm số 1515/2014/DS-PT ngày 01/12/2014.

t) Tại Quyết định kháng nghị số 38/KNGĐT-VC3-V2 ngày 21-3-2016, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh kháng nghị Bản án dân sự phúc thẩm số 1515/2014/DS-PT ngày 01-12-2014 của Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh; đề nghị Ủy ban Thẩm phán Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh xét xử giám đốc thẩm hủy Bản án dân sự phúc thẩm nêu trên và Bản án dân sự sơ thẩm số 12/2014/DS-ST ngày 16-4-2014 của Tòa án nhân dân Quận 3, Thành phố Hồ Chí Minh; giao hồ sơ vụ án cho Tòa án cấp sơ thẩm xét xử sơ thẩm lại.

u) Tại Quyết định giám đốc thẩm số 234/2016/DS-GĐT ngày 09-9-2016, Ủy ban Thẩm phán Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh quyết định:

Không chấp nhận Kháng nghị số 38/KNGĐT-VC3-V2 ngày 21-3-2016 của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh; giữ nguyên Bản án dân sự phúc thẩm số 1515/2014/DS-PT ngày 01-12-2014 của Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh.

v) Ngày 21/01/2017, ông Nguyễn Công H, bà Trần Thị C1, bà Trần Thị Kim T1 có đơn đề nghị xem xét theo thủ tục giám đốc thẩm đối với Quyết định giám đốc thẩm số 234/2016/DS-GĐT ngày 09-9-2016 nêu trên.

w) Tại Quyết định kháng nghị giám đốc thẩm số 56/2019/KN-DS ngày 05-8-2019, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao đã kháng nghị Quyết định giám đốc thẩm số 234/2016/DS-GĐT ngày 09-9-2016 của Ủy ban Thẩm phán Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh; đề nghị Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao xét xử giám đốc thẩm hủy Quyết định giám đốc thẩm số 234/2016/DS-GĐT ngày 09-9-2016 của Ủy ban Thẩm phán Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh, hủy Bản án dân sự phúc thẩm số 1515/2014/DS-PT ngày 01-12-2014 của Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh và Bản án dân sự sơ thẩm số 12/2014/DS-ST ngày 16-4-2014 của Tòa án nhân dân Quận 3, Thành phố Hồ Chí Minh; giao hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân dân Quận 3, Thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm lại theo quy định của pháp luật.

x) Tại phiên tòa giám đốc thẩm, đại diện Viện kiểm sát nhân dân tối cao nhất trí với quyết định kháng nghị của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao.

2. Nhận định của Tòa án:

2.1. Hồ sơ, chứng cứ vụ án thể hiện, ngày 10-7-1989, cụ Trần Vân C và bà Trần Thị C1 ký Bản cam kết và Giấy biên nhận với nội dung: Cụ C có nhận của bà C1 75 chỉ vàng, cho vợ chồng bà C1 toàn quyền sử dụng phần diện tích 45m2 tại căn nhà số 182 đường A, phường B, quận D, Thành phố Hồ Chí Minh; cụ C không bao giờ đòi lại nhà, cũng như vợ chồng bà C1 không đòi lại vàng; khi nào Nhà nước cho cụ C mua hóa giá nhà thì ông H, bà C1 phải trả tiền hóa giá phần diện tích đang sử dụng và cụ C có trách nhiệm làm thủ tục chuyển quyền sở hữu phần diện tích đã sang nhượng cho ông H, bà C1.

[Nội dung Án lệ] Như vậy, có cơ sở xác định cụ C đã thỏa thuận bán một phần căn nhà số 182 đường A đang thuê của Nhà nước cho bà C1 với điều kiện khi cụ C được Nhà nước hóa giá, hay nói cách khác, giao dịch giữa cụ C và bà C1 là giao dịch dân sự có điều kiện, khi nào cụ C được Nhà nước bán hóa giá nhà thì giao dịch phát sinh hiệu lực. Điều 23 Pháp lệnh Hợp đồng dân sự năm 1991 quy định: “Trong trường hợp các bên thỏa thuận về một sự kiện là điều kiện thực hiện hoặc chấm dứt hợp đồng, thì khi sự kiện đó xảy ra, hợp đồng phải được thực hiện hoặc chấm dứt”. Điều kiện thỏa thuận trong hợp đồng tuy không vi phạm điều cấm của pháp luật, không trái đạo đức xã hội, nhưng trong phần nhà đất cụ C thỏa thuận chuyển nhượng cho bà C1 có diện tích 42,74m2 nằm trong lộ giới, Nhà nước không hóa giá và không công nhận quyền sở hữu nhà, quyền sử dụng đất của cụ C cho nên phần lớn điều kiện đó không xảy ra. Vì vậy, sự thỏa thuận giữa cụ C với bà C1 không phát sinh hiệu lực, Tòa án cấp sơ thẩm và phúc thẩm tuyên vô hiệu là có căn cứ.

2.2. Theo quy định tại Điều 21 Luật Nhà ở năm 2005, điểm h khoản 1 Điều 10 Luật Nhà ở năm 2014 và Điều 256 Bộ luật Dân sự năm 2005 thì chủ sở hữu, chủ thể có quyền khác đối với tài sản có quyền đòi lại tài sản từ người chiếm hữu, người sử dụng tài sản, người được lợi về tài sản không có căn cứ pháp luật. Vì phần nhà đất có diện tích 42,74m2 đang tranh chấp nằm trong lộ giới, Nhà nước không hóa giá, không công nhận quyền sở hữu nhà, quyền sử dụng đất cho cụ C thì cụ C và những người thừa kế của cụ C không có quyền kiện đòi phần diện tích nhà đất đó.

Tòa án cấp sơ thẩm và cấp phúc thẩm buộc ông H, bà C1, bà T1, bà K phải có trách nhiệm giao trả cho những người kế thừa quyền, nghĩa vụ tố tụng của cụ C phần diện tích nhà và đất thuộc lộ giới, Nhà nước không công nhận quyền sở hữu nhà, quyền sử dụng đất là không có căn cứ. Quyết định giám đốc thẩm của Ủy ban Thẩm phán Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh không nhận thấy sai sót của Tòa án cấp sơ thẩm và Tòa án cấp phúc thẩm, từ đó tuyên không chấp nhận kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh, giữ nguyên bản án phúc thẩm là không đúng với quy định tại khoản 2 Điều 345 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.

3. Bình luận Án lệ

• Tại Khoản 6 Điều 402 Bộ luật Dân sự 2015 có quy định “Hợp đồng có điều kiện là hợp đồng mà việc thực hiện phụ thuộc vào việc phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt một sự kiện nhất định.”

Để hiểu rõ hơn thì loại hợp đồng này mang tính chất đặc trưng là hợp đồng được hình thành trên cơ sở những điều kiện nhất định (ví dụ như điều kiện phát sinh, điều kiện thực hiện, điều kiện hủy bỏ hợp đồng). Điều kiện này diễn ra thì nghĩa vụ thực hiện hợp đồng của một bên hoặc các bên sẽ phát sinh.

Đối chiếu với trường hợp của Án lệ này, thỏa thuận tại Bản cam kết ngày 10-7-1989 của cụ C với bà C1 và ông H có nội dung phù hợp với bản chất của Hợp đồng có điều kiện, tức khi nào thửa đất được Nhà nước hóa giá thì các bên sẽ tiến hành thủ tục mua bán và chuyển nhượng.

• Tại nhận định của Tòa án đã ghi nhận “có cơ sở xác định cụ C đã thỏa thuận bán một phần căn nhà số 182 đường A đang thuê của Nhà nước cho bà C1 với điều kiện khi cụ C được Nhà nước hóa giá, hay nói cách khác, giao dịch giữa cụ C và bà C1 là giao dịch dân sự có điều kiện, khi nào cụ C được Nhà nước bán hóa giá nhà thì giao dịch phát sinh hiệu lực” đã thể hiện rõ ràng về điều kiện trong hợp đồng mua bán nhà, mặc dù hợp đồng chưa có hiệu lực nhưng giữa các bên đã thỏa thuận điều kiện phát sinh thực hiện. Tòa án đã xác định đây là giao dịch có điều kiện.

Do đó, việc Tòa án nhận định “giao dịch dân sự có điều kiện nhưng vô hiệu do điều kiện của hợp đồng không thể xảy ra” là hợp lý, vì đối tượng của giao dịch là căn nhà chưa được hóa giá. Kể từ thời điểm các bên tiến hành giao dịch thì bên bán chỉ đang thuê nhà vẫn thuộc sở hữu của Nhà nước. Khi nào nhà ở vẫn chưa được hóa giá thì bên bán vẫn chưa được cấp quyền sở hữu đối với căn nhà. Việc bên mua được chuyển nhượng quyền sở hữu phần diện tích đã được thỏa thuận sang nhượng sau khi bên bán được cấp quyền chỉ là điều kiện trong tương lai không chắc chắn có thể xảy ra. Thực tế vụ việc cho thấy Nhà nước đã không tiến hành hóa giá và không công nhận quyền sở hữu đối với căn nhà, như vậy điều kiện phát sinh hiệu lực của giao dịch đã không xảy ra và do đó thỏa thuận giữa bên mua và bên bán bị vô hiệu.

Trên đây là bài viết của TNTP về “Án lệ số 39/2020/AL về xác định giao dịch dân sự có điều kiện vô hiệu do điều kiện không thể xảy ra”. Chúng tôi mong bài viết này sẽ giúp ích cho các quý bạn đọc.

Trân trọng,

Vai trò của Luật sư trong giải quyết tranh chấp kinh doanh thương mại

Tranh chấp kinh doanh thương mại bao gồm nhiều loại mâu thuẫn và cấp độ khác nhau trong đời sống dân sự – kinh tế của mỗi quốc gia và khu vực. Thực tế, những tranh chấp này đang có xu hướng gia tăng cả về số lượng lẫn phạm vi, đặc biệt ở các khu vực có tốc độ phát triển kinh tế nhanh chóng. Trong bối cảnh đó, vai trò của Luật sư trở nên vô cùng quan trọng, không chỉ để giải quyết các tranh chấp một cách hiệu quả mà còn để đảm bảo sự bảo vệ cho quyền và lợi ích của chủ thể. Trong bài viết này, TNTP sẽ giúp quý bạn đọc hiểu rõ hơn về vai trò của Luật sư trong giải quyết tranh chấp kinh doanh thương mại.

1. Đề xuất phương án giải quyết tranh chấp phù hợp

• Luật sư giữ vai trò quan trọng không chỉ trong việc giải quyết các tranh chấp một cách hiệu quả mà còn trong việc hướng dẫn khách hàng lựa chọn phương thức giải quyết tranh chấp phù hợp. Khi có tranh chấp diễn ra có rất nhiều phương pháp giải quyết tranh chấp khác nhau (các phương thức như thương lượng, hòa giải, trọng tài và tòa án). Mỗi phương pháp đều có ưu điểm và hạn chế riêng. Và mỗi vấn đề tranh chấp có thể đòi hỏi một phương pháp giải quyết khác nhau tùy thuộc vào tính chất của tranh chấp và mục tiêu của khách hàng.

• Luật sư là người trực tiếp hỗ trợ khách hàng, nắm được thông tin, hồ sơ vụ việc cũng như thấu hiểu được mong muốn, mục tiêu của khách hàng. Từ đó, cùng với kiến thức, kỹ năng cũng như kinh nghiệm được tích lũy, Luật sư có thể đưa đề xuất phương án giải quyết tối ưu nhất đối với vụ việc. Với sự hỗ trợ của Luật sư, việc lựa chọn được phương thức phù hợp chính là chìa khóa để giải quyết tranh chấp.

• Bên cạnh đó Luật sư có thể hỗ trợ lồng ghép khéo léo các phương thức để hướng tới giải quyết vụ việc hiệu quả và đạt được kết quả tối ưu nhất.

2. Lựa chọn chính xác quy định pháp luật

• Trong lĩnh vực kinh doanh thương mại, tranh chấp thường phát sinh từ các vấn đề pháp lý dẫn đến sự thay đổi hoặc chấm dứt quyền và nghĩa vụ pháp lý giữa các bên. Việc chọn lựa quy định pháp luật để giải quyết tranh chấp là vô cùng quan trọng, cần đảm bảo cơ sở pháp lý lo xác và hiệu quả.

• Pháp luật đối với lĩnh vực kinh doanh thương mại thường chuyển đổi và cập nhật liên tục, yêu cầu sự nắm vững và cập nhật liên tục từ phía Luật sư và các chuyên gia pháp lý. Trong thực tế, việc áp dụng pháp luật vào giải quyết tranh chấp kinh doanh thương mại thường không đơn giản đòi hỏi người vận dụng phải có chuyên môn cao. Đặc biệt, sự chồng chéo và thiếu nhất quán trong các quy định pháp luật có thể làm tăng đáng kể độ phức tạp của quá trình giải quyết tranh chấp. Do đó, việc sử dụng dịch vụ của các Luật sư là điều cần thiết. Khi đó, Luật sư với sự am hiểu pháp luật tại quốc gia, địa phương có thể đưa ra những căn cứ pháp lý, quy định pháp luật chính xác, phù hợp làm căn cứ để giải quyết tranh chấp.

3. Đảm bảo quyền lợi, hạn chế rủi ro với khách hàng

• Thu thập chứng cứ, tài liệu phục vụ cho giải quyết tranh chấp kinh doanh thương mại luôn là việc khó, đòi hỏi phải có phương pháp, chiến lược bài bản. Luật sư có sự hiểu biết sâu sắc về hệ thống pháp luật và kinh nghiệm trong thực hiện các thủ tục pháp lý, vì vậy sẽ hỗ trợ một cách tốt nhất trong quá trình thu thập bằng chứng, chứng cứ, đưa ra các lập luận logic, hợp lý đối với vụ việc. Từ đó, đưa ra được những căn cứ để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp đối với khách hàng. Việc có Luật sư hỗ trợ sẽ giúp quá trình này được thuận lợi và chính xác hơn.

• Luật sư với tư cách độc lập trong quá trình tố tụng sẽ đảm bảo được quyền lợi của khách hàng được thực hiện đầy đủ, không bị xâm phạm trong toàn bộ quá trình giải quyết tranh cấp trong cũng như ngoài tố tụng. Cũng như đấu tranh khi có những tiêu cực, đưa ra những phương án giải quyết phù hợp khi có những quyết định chưa phù hợp gây ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của khách hàng.

• Đồng thời, Luật sư với vốn hiểu biết của mình cũng như nắm rõ thông tin về vụ việc có thể giúp cho khách hàng hạn chế tối đa những rủi ro, thiệt hại khách hàng có thể mắc phải trong các vụ tranh chấp. Giải quyết tranh chấp một cách hợp tình, hợp lý và đặc biệt giải quyết trên cơ sở tuân thủ, không trái quy định của pháp luật.

Việc Luật sư giúp cho khách hàng hiểu rõ quyền và lợi ích hợp pháp của mình cũng như lường trước được những rủi ro có thể gặp phải sẽ là một trong những yếu tố mấu chốt để việc giải quyết tranh chấp đạt được sự hiệu quả.

4. Hỗ trợ giải quyết tranh chấp nhanh chóng, hiệu quả

• Luật sư với am hiểu quy định pháp luật, quy trình tố tụng có thể tư vấn, hỗ trợ cho khách hàng giải quyết tranh chấp một cách chuyên nghiệp, chính xác, để vụ việc được giải quyết nhanh chóng, hiệu quả và công bằng. Đơn cử như việc tài liệu được nộp sớm và đầy đủ, các vấn đề tranh chấp, các vấn đề pháp lý được xác định chính xác, sẽ giúp tránh lãng phí thời gian xử lý những vấn đề nhỏ, không cần thiết, làm mất trọng tâm và có thể ảnh hưởng đến kết quả của quá trình xét xử.

• Việc thi hành án kinh doanh thương mại tốn nhiều thời gian cũng như công sức. Nếu không đạt được mục đích cuối cùng của hoạt động thi hành án, toàn bộ quá trình tố tụng và nội dung bản án phần nào đó có thể bị xem là vô nghĩa đối với người được thi hành án. Trên thực tế, có rất nhiều vụ việc trải qua quá trình tố tụng mất rất nhiều thời gian, công sức nhưng cuối cùng không thể thi hành được bản án, quyết định hay phán quyết. Vì vậy, trong giai đoạn thi hành án, vai trò của những người phụ trách pháp lý, cụ thể là Luật sư của các đương sự cần được đặc biệt đề cao.

Việc xây dựng chiến lược cho quá trình thi hành án có vai trò hết sức quan trọng và định hình kết quả của cả quá trình này. Vai trò của Luật sư thể hiện qua việc xây dựng phương án thi hành án phù hợp với tình hình thực tế của vụ việc, lập kế hoạch cho các hành động phải được thực hiện bởi người phải thi hành án, và dự tính các tình huống thực tế có thể phát sinh và cách giải quyết cho từng tình huống.

Quá trình xây dựng chiến lược cho việc thi hành án không chỉ bắt đầu khi bản án có hiệu lực, mà cần được tiến hành từ giai đoạn tiền tố tụng, ngay từ khi Luật sư tiếp nhận vụ việc từ khách hàng. Trong nhiều trường hợp, khi kết thúc quá trình tố tụng, người phải thi hành án đã thực hiện các biện pháp cần thiết để chuyển giao tài sản hoặc rút toàn bộ nhân sự quan trọng chịu trách nhiệm pháp lý ra khỏi giấy đăng ký hoạt động của doanh nghiệp. Trong tình thế này, quá trình thi hành án có thể phải đối mặt với nhiều thách thức, thậm chí có thể làm mất đi ý nghĩa của việc thi hành án sau này.

Trên đây là bài viết của TNTP về chủ đề “Vai trò của Luật sư trong giải quyết tranh chấp kinh doanh thương mại”. Mong rằng bài viết trên đem lại giá trị cho các độc giả trong quá trình giải quyết tranh chấp.

Trân trọng,

Bản tin pháp luật (Legal Newsletter) tháng 04/2024

Kính gửi Quý độc giả,

Chúng tôi trân trọng giới thiệu với quý độc giả Bản tin pháp luật (Legal Newsletter) tổng hợp các văn bản pháp luật chính trong tháng 042024 bao gồm:

– Những điểm mới nổi bật của Luật Kinh doanh Bất động sản 2023.

– Luật nhà ở 2023 và những điểm mới “xoay chuyển thế cục” thị trường nhà ở tại Việt Nam; và

– Án lệ số 33/2020/AL về trường hợp cá nhân được Nhà nước giao đất nhưng không sử dụng mà để người khác quản lý, sử dụng ổn định, lâu dài.

Tải Bản tin pháp lý

Chúng tôi hy vọng rằng các Bản tin pháp luật này sẽ đem lại giá trị hữu ích, đảm bảo việc cập nhật các văn bản pháp lý có giá trị với độc giả trong quá trình hành nghề và trong cuộc sống.

Trân trọng

Công ty Luật TNHH Quốc Tế TNTP và Các Cộng Sự

  • Văn phòng tại Hồ Chí Minh:
    Phòng 1901, Tầng 19 Tòa nhà Saigon Trade Center, 37 Tôn Đức Thắng, Phường Bến Nghé, Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh
  • Văn phòng tại Hà Nội:
    Số 2, Ngõ 308 Tây Sơn, Phường Thịnh Quang, Quận Đống Đa, Hà Nội
  • Email: ha.nguyen@tntplaw.com


    Bản quyền thuộc về: Công ty Luật TNHH Quốc Tế TNTP và Các Cộng Sự