Skip to main content

Author: TNTP LAW

Những tranh chấp hợp đồng góp vốn kinh doanh thường gặp và phương thức giải quyết tranh chấp

Trong thời đại hoạt động kinh doanh và kinh tế ngày càng phát triên như hiện nay, chúng ta không xa lạ gì khi bắt gặp những hợp đồng góp vốn đang rất thông dụng và phổ biến trong đời sống hàng ngày giữa các cá nhân và các doanh nghiệp với nhau. Mục đích của hợp đồng góp vốn thường là thành lập doanh nghiệp, hợp tác kinh doanh hoặc đầu tư. Vì vậy, số lượng hợp đồng góp vốn ngày càng gia tăng, kéo theo đó là những rủi ro pháp lý dẫn đến tranh chấp ngày càng nhiều. Do đó, trong bài viết này, TNTP đưa ra những tranh chấp hợp đồng góp vốn thường gặp nhằm giúp các bạn đọc có thể hiểu rõ cũng như có phương án giải quyết bức thiết nhằm bảo vệ quyền lợi hợp pháp của mình trong trường hợp xảy ra tranh chấp trên thực tế.

1. Hợp đồng góp vốn kinh doanh là gì?

• Theo Khoản 18 Điều 4 Luật Doanh nghiệp 2020 về Giải thích từ ngữ đã quy định “Góp vốn là việc góp tài sản để tạo thành vốn điều lệ của công ty, bao gồm góp vốn để thành lập công ty hoặc góp thêm vốn điều lệ của công ty đã được thành lập.”

• Theo Điều 385 Bộ luật Dân sự 2015 về Khái niệm Hợp đồng đã quy định “Hợp đồng là sự thỏa thuận giữa các bên về việc xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự.”

• Pháp luật hiện hành chưa có quy định cụ thể về Hợp đồng góp vốn kinh doanh hay Hợp đồng góp vốn (gọi chung là “HĐGV”) nhưng chúng ta có thể hiểu HĐGV là sự thỏa thuận của hai hay nhiều bên, trong đó các bên sẽ cùng nhau góp vốn, tài sản để cùng thực hiện công việc nào đó, cùng hưởng lợi từ công việc chung và cùng chịu trách nhiệm theo quy định tại HĐGV.

2. Lưu ý những tranh chấp HĐGV thường gặp

Từ thực tế có thể thấy, nguyên nhân dẫn đến tranh chấp HĐGV thường xoay quanh một số vấn đề sau:

• Tranh chấp về việc các bên không thực hiện nghĩa vụ góp vốn:

Theo quy định tại HĐGV, mỗi bên sẽ góp vốn theo giá trị hoặc tài sản đã thỏa thuận, thời hạn góp vốn và mục đích của việc góp vốn. Tài sản góp vốn có thể là Đồng Việt Nam, ngoại tệ tự do chuyển đổi, vàng, quyền sử dụng đất, quyền sở hữu trí tuệ, công nghệ, bí quyết kỹ thuật, tài sản khác có thể định giá được bằng Đồng Việt Nam. Chỉ cá nhân, tổ chức là chủ sở hữu hợp pháp hoặc có quyền sử dụng hợp pháp đối với những tài sản kể trên mới có quyền sử dụng tài sản đó để góp vốn theo quy định của pháp luật (Điều 34 Luật Doanh nghiệp 2020).

Như vậy, trước khi ký kết HĐGV, các bên phải kiểm tra cẩn thận nguồn gốc, giá trị tài sản, quyền sở hữu hợp pháp hoặc quyền sử dụng hợp pháp đối với tài sản đó; quy định chặt chẽ hơn về phạt vi phạm hợp đồng và bồi thường thiệt hại khi góp vốn không đúng thời hạn, tài sản góp không thuộc quyền sử dụng hoặc quyền sở hữu hợp pháp của bên góp vốn, tài sản đang có tranh chấp hoặc bị kê biên để đảm bảo thi hành án.

• Tranh chấp về việc phân chia lợi nhuận và nghĩa vụ chịu rủi ro tương ứng với phần vốn góp:

Thông thường, khi giao kết HĐGV, các bên thỏa thuận góp vốn phải góp tài sản theo quy định để thực hiện công việc và phân chia lợi nhuận tương ứng cho các bên. Trường hợp, công việc kinh doanh xảy ra rủi ro và công việc bị thua lỗ, các bên phải chịu trách nhiệm theo phần vốn tương ứng đã góp theo thỏa thuận.

Do đó, nếu HĐGV không quy định rõ tỷ lệ phân chia lợi nhuận, cách chia và trách nhiệm chịu rủi ro tương ứng với tỷ lệ góp vốn của mỗi bên thì các bên rất dễ phát sinh tranh chấp.

• Tranh chấp về việc đơn phương chấm dứt hợp đồng:

Tương tự như các loại hợp đồng khác, trường hợp một bên đơn phương chấm dứt hợp đồng mà không thông báo cho các bên còn lại theo thời hạn và/hoặc cách thức thông báo đúng theo thỏa thuận, các bên còn lại có thể bị thiệt hại. Việc này dẫn đến các bên xung đột và mâu thuẫn khi xác định mức bồi thường thiệt hại và việc thanh toán bồi thường thiệt hại cho bên bị thiệt hại.

3. Các phương thức giải quyết tranh chấp HĐGV

a) Giải quyết tranh chấp bằng Trọng tài thương mại

• Trọng tài thương mại là phương thức giải quyết tranh chấp có tính bảo mật thông tin cao và thủ tục nhanh chóng. Đây cũng là ưu điểm của phương thức này khi các bên không muốn bị công khai thông tin có phát sinh tranh chấp (như thủ tục tại Tòa án) sẽ làm ảnh hưởng uy tín của doanh nghiệp trong quá trình hoạt động.

• Ngoài ra, theo nguyên tắc của Trọng tài thương mại, các bên có thể tự thỏa thuận lựa chọn Trung tâm Trọng tài, Trọng tài viên phù hợp, ngôn ngữ và pháp luật giải quyết tranh chấp, … theo ý muốn của mình,

• Bên cạnh đó, các bên cũng cần lưu ý khi chọn phương thức Trọng tài thương mại thì phí trọng tài thường cao hơn so với thủ tục tố tụng tại Tòa . Ngoài ra, các bên có thể đề nghị hủy phán quyết trọng tài tại Tòa án nếu có căn cứ chứng minh thủ tục tố tụng không phù hợp với quy định pháp luật và nội dung phán quyết trái với quy định của pháp luật.

b) Giải quyết tranh chấp tại Tòa án

• Đây là phương thức được cơ quan xét xử nhân danh nhà nước là Tòa án nhân dân có thẩm quyền thực hiện xét xử theo trình tự, thủ tục nghiêm ngặt và chặt chẽ quy định tại Bộ luật Tố tụng dân sự.

• Khác với phương thức giải quyết bằng Trọng tài thương mại, các bên sẽ không được lựa chọn Thẩm phán hay quyết định thành phần Hội đồng xét xử giải quyết tranh chấp của mình.

• Bản án/Quyết định của Tòa án có giá trị thi hành án. Khi giải quyết bằng phương thức này, bên có nghĩa vụ bắt buộc phải thực hiện theo nội dung Bản án/Quyết định của Tòa án có hiệu lực pháp luật.

• Tuy nhiên, ngoại trừ trường hợp quy định tại Khoản 2 Điều 15 Bộ luật Tố tụng Dân sự 2015 thì tranh chấp thông thường sẽ được Tòa án xét xử công khai. Vì vậy, những vấn đề về bí mật kinh doanh, uy tín của doanh nghiệp sẽ không được đảm bảo. Do đó, các doanh nghiệp cần lưu ý khi lựa chọn phương thức này.

• Đồng thời, vì tính chất chặt chẽ trong thủ tục tố tụng mà phương thức giải quyết tại Tòa án sẽ có thời gian kéo dài và không linh hoạt.

• Ngoài ra, bản án có thể bị kháng cáo, kháng nghị theo thủ tục tố tụng nếu đủ điều kiện kháng cáo, kháng nghị theo quy định của pháp luật.

Trên đây là bài viết của luật sư TNTP về chủ đề: “Những tranh chấp hợp đồng góp vốn kinh doanh thường gặp và phương thức giải quyết tranh chấp”. Mong rằng bài viết này đem lại giá trị với các độc giả.

Trân trọng,

Tranh chấp căn hộ khách sạn “condotel”

Trong những năm gần đây, căn hộ khách sạn hay còn gọi là “condotel” đã trở thành một xu hướng đầu tư bất động sản hấp dẫn tại Việt Nam. Với sự kết hợp giữa mô hình căn hộ và khách sạn, condotel hứa hẹn mang lại lợi nhuận cao từ việc cho thuê lại. Tuy nhiên, không ít nhà đầu tư đã gặp phải những tranh chấp pháp lý phức tạp xoay quanh loại hình bất động sản này. Dưới đây, chúng tôi sẽ phân tích một số vấn đề pháp lý thường gặp và cách giải quyết tranh chấp liên quan đến condotel.

1. Khái quát về condotel

• Căn hộ khách sạn, hay còn gọi là “condotel” là một loại hình bất động sản kết hợp giữa căn hộ chung cư và khách sạn. Condotel thường được xây dựng tại các khu du lịch, nghỉ dưỡng hoặc các đô thị lớn với mục đích chính là cho thuê ngắn hạn như một khách sạn, nhưng vẫn có thể sở hữu và sử dụng như một căn hộ chung cư.

• Condotel là một loại hình bất động sản đã và đang rất phổ biến trên thế giới. Tại Việt Nam, loại hình này vẫn còn tương đối mới mẻ, tuy nhiên cũng đã nhanh chóng thu hút sự quan tâm của các nhà đầu tư nhờ tiềm năng sinh lợi hấp dẫn và sự kết hợp độc đáo giữa căn hộ và dịch vụ khách sạn cao cấp.

Chính vì sự mới mẻ và sức hấp dẫn lớn, ngày càng có nhiều dự án condotel được triển khai. Tuy nhiên, cùng với sự bùng nổ này là sự gia tăng của các tranh chấp liên quan.

2. Những tranh chấp liên quan đến căn hộ khách sạn “condotel”

Theo quy định của tại Luật kinh doanh bất động sản 2014 hiện hành và các văn bản quy phạm pháp luật liên quan, hiện chưa có các quy định cụ thể về mua bán và chuyển nhượng condotel, đặc biệt là về điều kiện và bảo lãnh trong các hoạt động mua bán và chuyển nhượng hợp đồng căn hộ khách sạn “condotel” hình thành trong tương lai. Việc thiếu sự kiểm soát cũng như ràng buộc các bên này là một trong những nguyên nhân gây ra tranh chấp trong việc mua bán, chuyển nhượng và sử dụng condotel. Một số tranh chấp phổ biến có thể kể tới như:

• Không tuân thủ lợi nhuận như đã cam kết: Chủ đầu tư thường đưa ra cam kết lợi nhuận cao, từ 8-15% mỗi năm, để thu hút nhà đầu tư. Tuy nhiên, khi thị trường gặp khó khăn hoặc do năng lực quản lý kém, chủ đầu tư không thể thực hiện đúng cam kết, gây thiệt hại tài chính cho nhà đầu tư. Điều này dẫn đến các tranh chấp yêu cầu bồi thường thiệt hại và điều chỉnh điều khoản hợp đồng.

• Chậm trễ bàn giao căn hộ: Nhiều dự án condotel bị chậm trễ trong việc xây dựng và bàn giao, khiến khách hàng không thể sử dụng căn hộ đúng thời hạn. Nguyên nhân có thể bắt nguồn từ chính sách pháp luật hoặc nguyên nhân tài chính. Khi xảy ra chậm trễ, khách hàng yêu cầu hoàn tiền nhưng chủ đầu tư không đáp ứng, dẫn đến tranh chấp pháp lý.

• Quyền sở hữu: Pháp luật Việt Nam hiện chưa có quy định rõ ràng về việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đối với các căn hộ condotel. Điều này dẫn đến nhiều tranh chấp về quyền sở hữu, khi mà chủ sở hữu không thể xác lập quyền sở hữu lâu dài cho căn hộ của mình. Nhà đầu tư cần nắm rõ các quy định pháp lý và tư vấn pháp luật để tránh rủi ro này. Từ việc không xác lập được quyền sở hữu và sử dụng đối với căn hộ khách sạn nên việc chuyển nhượng quyền sở hưu và sử dụng cũng gây ra những tranh chấp đối với chủ đầu tư.

• Quản lý và vận hành: Đơn vị quản lý condotel có trách nhiệm vận hành và cung cấp dịch vụ cho khách hàng. Tuy nhiên, nếu chất lượng dịch vụ không đạt yêu cầu hoặc có mâu thuẫn về chi phí quản lý và bảo trì, nhà đầu tư có thể yêu cầu thay đổi đơn vị quản lý hoặc khởi kiện chủ đầu tư. Tranh chấp này thường liên quan đến việc đơn vị quản lý không thực hiện đúng cam kết hoặc có sự không minh bạch trong chi phí.

• Tranh chấp về chi phí bảo trì và sửa chữa: Chi phí bảo trì và sửa chữa condotel là một trong những vấn đề thường xuyên gây tranh chấp. Chủ đầu tư và nhà đầu tư có thể mâu thuẫn về việc phân chia chi phí này, đặc biệt là khi có sự cố hoặc cần sửa chữa lớn. Tranh chấp này thường liên quan đến việc hợp đồng không quy định rõ ràng hoặc có sự chênh lệch trong việc đánh giá chi phí.

• Chuyển nhượng và quản lý: Việc chuyển nhượng và quản lý căn hộ condotel gặp nhiều khó khăn do thiếu cơ sở pháp lý. Điều này dẫn đến các mâu thuẫn giữa chủ đầu tư và chủ sở hữu căn hộ, đặc biệt khi có nhu cầu chuyển nhượng hoặc thay đổi đơn vị quản lý.

3. Lưu ý để giảm thiểu tranh chấp xảy ra

• Kiểm tra kỹ hợp đồng: Trước khi ký kết, cần đọc và hiểu rõ các điều khoản trong hợp đồng mua bán hoặc đầu tư condotel. Đảm bảo các cam kết về lợi nhuận, thời gian bàn giao và các điều khoản được nêu trong hợp đồng phải chính xác và bảo đảm được quyền lợi cho các bên.

• Nghiên cứu pháp lý: Tìm hiểu kỹ về các quy định pháp lý liên quan đến condotel, đặc biệt là về quyền sử dụng đất, quyền sở hữu và các điều khoản về quản lý và vận hành.

• Chọn đơn vị quản lý uy tín: Đảm bảo rằng đơn vị quản lý condotel có uy tín và kinh nghiệm trong lĩnh vực này. Việc quản lý chuyên nghiệp giúp giảm thiểu xung đột và tranh chấp về chất lượng dịch vụ và chi phí quản lý.
• Theo dõi tiến độ và thực hiện cam kết: Luôn theo dõi tiến độ xây dựng và bàn giao của dự án condotel để có thể đưa ra phản ứng kịp thời khi có sự chậm trễ. Đảm bảo các cam kết được thực hiện đúng theo hợp đồng.

• Lựa chọn phương pháp giải quyết tranh chấp phù hợp: Để giải quyết tranh chấp về căn hộ khách sạn condotel, có thể lựa chọn thương lượng, hòa giả, giải quyết tại trọng tài, hoặc giải quyết tại tòa án, tuỳ vào tính chất và độ phức tạp của tranh chấp. Mỗi phương pháp đều có những ưu và nhược điểm khác nhau. Vì vậy việc lựa chọn được phương pháp phù hợp và vô cùng quan trọng.

Để áp dụng các lưu ý trên một cách hiệu quả, bạn đọc có thể tìm đến sự hỗ trợ từ các chuyên gia pháp lý và đội ngũ luật sư có kinh nghiệm. Những chuyên gia này không chỉ cung cấp kiến thức chuyên sâu về pháp luật liên quan đến căn hộ khách sạn condotel mà còn giúp định hướng rõ ràng về các quy định pháp lý và cách giải quyết tranh chấp một cách hiệu quả. Sự hỗ trợ từ các chuyên gia pháp lý sẽ giúp quý vị giảm thiểu rủi ro về việc xảy ra tranh chấp và bảo vệ quyền lợi của mình trong quá trình đầu tư và quản lý căn hộ condotel.

Trên đây là bài viết “Tranh chấp căn hộ khách sạn “condotel” mà TNTP gửi đến Quý bạn đọc. Trường hợp có vấn đề cần trao đổi, vui lòng liên hệ với TNTP để được hỗ trợ.

Trân trọng,

Bản tin pháp luật (Legal Newsletter) tháng 06/2024

Kính gửi Quý độc giả,

Chúng tôi trân trọng giới thiệu với quý độc giả Bản tin pháp luật (Legal Newsletter) tổng hợp các văn bản pháp luật chính trong tháng 6/2024 bao gồm:

– Những điểm mới nổi bật của Luật Giao dịch điện tử 2023;

– Những điểm mới của nghị định 46/2024/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung một số điều của nghị định số 99/2013/NĐ-CP ngày 29 tháng 8 năm 2013 của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực sở hữu công nghiệp đã được sửa đổi, bổ sung một số điều theo nghị định số 126/2021/NĐ-CP ngày 30 tháng 12 năm 2021 của Chính phủ;

– Án lệ số 36/2020/AL về hiệu lực của Hợp đồng Thế chấp Quyền sử dụng đất khi Giấy chứng nhận Quyền sử dụng đất bị thu hồi, hủy bỏ.

Tải Bản tin pháp lý

Chúng tôi hy vọng rằng các Bản tin pháp luật này sẽ đem lại giá trị hữu ích, đảm bảo việc cập nhật các văn bản pháp lý có giá trị với độc giả trong quá trình hành nghề và trong cuộc sống.

Trân trọng

Những nội dung cần lưu ý về tài sản thế chấp

Với vai trò là một trong những biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ được áp dụng phổ biến trong hoạt động cho vay tài sản, biện pháp thế chấp không chỉ đóng vai trò trong việc nâng cao trách nhiệm thực hiện cam kết trả nợ của bên vay, mà còn phòng ngừa rủi ro liên quan đến việc không thực hiện, thực hiện không đúng, không đầy đủ nghĩa vụ trả nợ của bên vay. Khi giao kết hợp đồng thế chấp tài sản, các bên, đặc biệt là bên nhận thế chấp phải kiểm tra kỹ lưỡng tính pháp lý của tài sản thế chấp. Trong bài viết này, TNTP sẽ phân tích những nội dung cần lưu ý về tài sản thế chấp.

1. Một số loại tài sản thế chấp

• Tài sản hiện có hoặc tài sản hình thành trong tương lai, trừ trường hợp Bộ luật Dân sự, luật khác liên quan cấm mua bán, cấm chuyển nhượng hoặc cấm chuyển giao quyền sở hữu tại thời điểm xác lập hợp đồng thế chấp tài sản;

• Tài sản bán trong hợp đồng mua bán tài sản có bảo lưu quyền sở hữu;

• Tài sản thuộc đối tượng của nghĩa vụ trong hợp đồng song vụ bị vi phạm đối với biện pháp cầm giữ.

2. Các điều kiện cơ bản của tài sản thế chấp

Khi giao kết hợp đồng thế chấp tài sản, các bên, đặc biệt là bên nhận thế chấp cần kiểm tra các điều kiện cơ bản sau của tài sản thế chấp:

• Thứ nhất, bên thế chấp buộc phải là chủ sở hữu hợp pháp của tài sản thế chấp, trừ trường hợp cầm giữ tài sản, bảo lưu quyền sở hữu. Trong hầu hết các trường hợp, tài sản thế chấp không những phải thuộc quyền sở hữu của bên thế chấp mà còn phải không có tranh chấp để giảm thiểu tối đa những rủi ro tiềm ẩn cho bên nhận thế chấp.

Trước khi giao kết hợp đồng thế chấp, bên thế chấp phải thông báo cho bên nhận thế chấp những hạn chế quyền đối với tài sản thế chấp. Tuy nhiên, bên thế chấp có thể không thông báo một cách trung thực hoặc cố ý che giấu tình trạng của tài sản, dẫn đến bên nhận thế chấp có thể phải chịu những rủi ro sau: tài sản không đúng với mô tả, tài sản có giá trị thấp hơn giá trị kê khai, tài sản thế chấp không thuộc quyền sở hữu của bên thế chấp,… Do vậy, bên nhận thế chấp cần kiểm tra kỹ lưỡng về tài sản thế chấp như tình trạng thực tế của tài sản thế chấp, các giấy tờ thể hiện quyền sở hữu tài sản của bên thế chấp,…

• Thứ hai, tài sản thế chấp có thể chuyển giao được trong giao dịch dân sự. Hai yếu tố cơ bản để khẳng định một tài sản có thể chuyển giao trong các giao dịch dân sự là: tài sản không gắn với yếu tố nhân thân, và tài sản đó không thuộc diện bị pháp luật cấm (không thuộc danh mục tài sản bị cấm lưu thông hoặc có quyết định thu giữ của cơ quan nhà nước có thẩm quyền).

3. Những nội dung khác về tài sản thế chấp

Việc sử dụng một tài sản nhất định làm tài sản thế chấp cũng cần tuân thủ các quy định pháp luật như sau:

• Thứ nhất, trường hợp thế chấp toàn bộ bất động sản, động sản có vật phụ thì vật phụ của bất động sản, động sản đó cũng thuộc tài sản thế chấp, trừ trường hợp có thỏa thuận khác.

• Thứ hai, trường hợp thế chấp một phần bất động sản, động sản có vật phụ thì vật phụ gắn với tài sản đó thuộc tài sản thế chấp, trừ trường hợp có thỏa thuận khác.

• Thứ ba, trường hợp thế chấp quyền sử dụng đất mà tài sản gắn liền với đất thuộc quyền sở hữu của bên thế chấp thì tài sản gắn liền với đất cũng thuộc tài sản thế chấp, trừ trường hợp có thỏa thuận khác.

• Thứ tư, trường hợp tài sản thế chấp được bảo hiểm thì bên nhận thế chấp phải thông báo cho tổ chức bảo hiểm biết về việc tài sản bảo hiểm đang được dùng để thế chấp. Tổ chức bảo hiểm chi trả tiền bảo hiểm trực tiếp cho bên nhận thế chấp khi xảy ra sự kiện bảo hiểm. Trường hợp bên nhận thế chấp không thông báo cho tổ chức bảo hiểm biết về việc tài sản bảo hiểm đang được dùng để thế chấp thì tổ chức bảo hiểm chi trả tiền bảo hiểm theo hợp đồng bảo hiểm và bên thế chấp có nghĩa vụ thanh toán cho bên nhận thế chấp.

Trên đây là bài viết “Những nội dung cần lưu ý về tài sản thế chấp” mà TNTP gửi đến bạn đọc. Trường hợp có nội dung cần trao đổi, bạn đọc vui lòng liên hệ với TNTP để được hỗ trợ kịp thời.

Trân trọng,

Tranh chấp về hợp đồng tín dụng và xử lý tài sản thế chấp

Hợp đồng tín dụng (“HĐTD”) và việc xử lý tài sản thế chấp là một phần quan trọng của hệ thống tài chính và ngân hàng, giúp thúc đẩy sự phát triển kinh tế và hỗ trợ các doanh nghiệp và cá nhân tiếp cận nguồn vốn. Tuy nhiên, khi các bên không thực hiện đúng cam kết hoặc có các tranh chấp phát sinh, việc giải quyết tranh chấp về hợp đồng tín dụng và xử lý tài sản thế chấp trở nên phức tạp và nhạy cảm. Theo đó, TNTP gửi đến Quý bạn đọc bài viết với nội dung “Tranh chấp về hợp đồng tín dụng và xử lý tài sản thế chấp”.

1. Hợp đồng tín dụng và tài sản thế chấp

Hợp đồng tín dụng là một thỏa thuận pháp lý bằng văn bản giữa người bên cho vay (tổ chức tín dụng) và bên vay (cá nhân hoặc pháp nhân) về việc thỏa thuận cung cấp một khoản tiền vay với các điều khoản cụ thể về lãi suất, thời hạn vay, và cách thức trả nợ.

Tài sản thế chấp (hay tài sản bảo đảm) là tài sản mà bên vay dùng để đảm bảo cho khoản vay, và trong trường hợp bên vay không thể thực hiện nghĩa vụ trả nợ, bên cho vay có quyền xử lý tài sản thế chấp để thu hồi nợ.

2. Các tranh chấp phổ biến về về hợp đồng tín dụng

Tranh chấp hợp đồng tín dụng là một loại tranh chấp phát sinh từ quan hệ của các bên trong hợp đồng tín dụng. Nội dung tranh chấp thường xoay quanh những vấn đề như:

• Tranh chấp do các bên vi phạm nghĩa vụ trong HĐTD: Bên vay không thực hiện đúng cam kết về thanh toán tiền gốc và lãi theo các điều khoản của hợp đồng hoặc các vi phạm liên quan đến sử dụng vốn không đúng mục đích, cung cấp thông tin không trung thực.

• Tranh chấp về chủ thể xác lập, thực hiện hợp đồng: Tranh chấp về tư cách pháp lý và thẩm quyền của các bên khi ký kết hợp đồng, hoặc sự không rõ ràng về quyền và nghĩa vụ trong hợp đồng.

• Tranh chấp về pháp luật giải quyết tranh chấp HĐTD: Mâu thuẫn về việc lựa chọn luật áp dụng và phương thức giải quyết tranh chấp.

• Đặc biệt phổ biến hiện nay là các tranh chấp xảy ra từ việc thực hiện biện pháp bảo đảm đối với HĐTD và xử lý tài sản thế chấp.

3. Các nguyên nhân tranh chấp trong quá trình xử lý tài sản thế chấp

Bộ luật Dân sự 2015 hiện hành và Luật Các tổ chức tín dụng 2010 và các văn bản quy phạm pháp luật kèm theo cũng quy định rất chi tiết về quy trình khi xử lý tài sản thế chấp. Tuy nhiên, trên thực tế việc xử lý tài sản thế chấp gặp phải không ít khó khăn, nguyên nhân chủ yếu như sau:

• Trong quá trình xử lý tài sản thế chấp tổ chức tín dụng trong quá trình xử lý tài sản không thông báo đầy đủ cho chủ tài sản cũng như bên vay hoặc thực hiện không đúng các bước trong việc xử lý tài sản. Cuối cùng dẫn đến việc xảy ra tranh chấp và mất rất nhiều thời gian xử lý tranh chấp tại Tòa.

• Tranh chấp cũng có thể phát sinh trong quá trình đấu giá và bán tài sản thế chấp. Quy trình đấu giá không minh bạch, giá bán không hợp lý hoặc bên vay và bên sở hữu tài sản thế chấp không được thông báo kịp thời về việc đấu giá tài sản của mình. Điều này dẫn đến các tranh chấp pháp lý về việc công nhận hoặc hủy bỏ kết quả đấu giá.

• Trong một số trường hợp, tài sản thế chấp sẽ liên quan đến quyền lợi của bên thứ ba (Ví dụ: bên đồng sở hữu, người thụ hưởng tài sản,…). Trong trường này nếu việc xử lý tài sản thế chấp gây ảnh hưởng đến quyền lợi của bên thứ ba có thể gây ra tranh chấp.

4. Giải pháp giải quyết tranh chấp

• Thương lượng và hòa giải: là phương thức giải quyết tranh chấp đầu tiên và ưu tiên nhằm tránh việc kéo dài xung đột và giảm thiểu chi phí pháp lý. Các bên có thể tìm kiếm sự đồng thuận thông qua đàm phán thương lượng trực tiếp hoặc sử dụng dịch vụ hòa giải từ bên thứ ba.

• Trọng tài: là phương thức giải quyết tranh chấp thay thế cho tòa án và thường được sử dụng khi các bên có điều khoản trọng tài trong hợp đồng. Quy trình trọng tài thường nhanh chóng và ít tốn kém hơn so với việc khởi kiện tại tòa án.

• Tòa án: Giải quyết tranh chấp tại Tòa án là phương thức phổ biến hiện nay đang được sử dụng.

Việc tranh chấp hợp đồng tín dụng và xử lý tài sản thế chấp là một quy trình phức tạp, đòi hỏi sự tuân thủ nghiêm ngặt các quy định pháp luật. Để giảm thiểu tranh chấp và đảm bảo quyền lợi hợp pháp của tất cả các bên liên quan, các tổ chức tín dụng cũng như bên vay, bên thế chấp nên cân nhắc tham vấn ý kiến hoặc tìm kiếm sự hỗ trợ từ các luật sư có kinh nghiệm trong lĩnh vực này. Luật sư có thể cung cấp những tư vấn pháp lý chính xác, giúp các bên hiểu rõ quyền và nghĩa vụ của mình, cũng như hướng dẫn xử lý các tình huống pháp lý phức tạp. Điều này không chỉ giúp đảm bảo tính minh bạch và công bằng trong quá trình xử lý tài sản, mà còn góp phần giảm thiểu rủi ro pháp lý và tránh những tranh chấp kéo dài không cần thiết. Việc tìm kiếm sự hỗ trợ từ chuyên gia pháp lý, đội ngũ luật sư sẽ là bước đi quan trọng để bảo vệ quyền lợi của các bên.

Trên đây là bài viết “Tranh chấp về hợp đồng tín dụng và xử lý tài sản thế chấp” mà TNTP gửi đến Quý bạn đọc. Trường hợp có vấn đề cần trao đổi, vui lòng liên hệ với TNTP để được hỗ trợ.

Trân trọng,

Phương thức giải quyết tranh chấp phát sinh từ hợp đồng thế chấp tài sản

Đối với bên cho vay, biện pháp thế chấp tài sản là nguồn thu nợ hữu dụng khi bên vay không hoàn trả được khoản nợ đúng hạn, đầy đủ. Tuy nhiên, trong thực tế, không phải lúc nào việc xử lý tài sản thế chấp của bên cho vay cũng diễn ra suôn sẻ. Trong quá trình thực hiện hợp đồng, đặc biệt là tại giai đoạn xử lý tài sản thế chấp, các tranh chấp giữa các bên thường phát sinh. Trong bài viết “Phương thức giải quyết tranh chấp phát sinh từ hợp đồng thế chấp tài sản”, TNTP sẽ nêu một số phương thức các bên trong quan hệ thế chấp có thể áp dụng để giải quyết tranh chấp.

1. Một số loại tranh chấp phát sinh từ hợp đồng thế chấp tài sản

Các tranh chấp phát sinh từ hợp đồng thế chấp tài sản rất đa dạng, tuy nhiên, về cơ bản bao gồm một số loại tranh chấp như sau:

• Tranh chấp liên quan đến chủ thể xác lập, thực hiện hợp đồng;
• Tranh chấp do vi phạm về hình thức của hợp đồng thế chấp tài sản;
• Tranh chấp về quyền sở hữu, sử dụng của tài sản thế chấp;
• Tranh chấp do vi phạm nghĩa vụ trong hợp đồng thế chấp tài sản;
• Tranh chấp trong việc lựa chọn phương thức xử lý tài sản thế chấp;
• Tranh chấp khi thỏa thuận và định giá tài sản thế chấp;
• Tranh chấp về thứ tự ưu tiên thanh toán và chênh lệch về giá trị tài sản thế chấp so với khoản vay được bảo đảm trong hợp đồng cho vay tài sản;
• Tranh chấp liên quan đến luật áp dụng và thẩm quyền giải quyết tranh chấp.

2. Các phương thức giải quyết tranh chấp phát sinh từ hợp đồng thế chấp tài sản

Một số phương thức thông dụng mà các bên thường áp dụng để giải quyết tranh chấp phát sinh từ hợp đồng thế chấp tài sản bao gồm: thương lượng, hòa giải, trọng tài và giải quyết tranh chấp tại Tòa án,…

• Về phương thức thương lượng:

Thành phần tham gia bao gồm các bên trong quan hệ hợp đồng thế chấp tài sản, hợp cho vay tài sản. Ngoài ra, các bên có thể nhờ sự hỗ trợ của bên thứ ba như luật sư, chuyên gia,… Các bên sẽ gặp gỡ, trao đổi với nhau để đạt được sự thỏa thuận chung, tuy nhiên thỏa thuận này không có giá trị bắt buộc mà phụ thuộc hoàn toàn vào sự tự giác, tự nguyện của các bên.

• Về phương thức hòa giải:

Khi giải quyết bằng phương thức này, ngoài thành phần tham gia là các bên trong quan hệ hợp đồng thế chấp tài sản, hợp đồng vay tài sản thì còn có sự hỗ trợ của hòa giải viên. Hòa giải viên đóng vai trò là người trung gian hỗ trợ các bên đạt được một thỏa thuận chung để giải quyết tranh chấp. Hòa giải viên có thể tư vấn và đề nghị áp dụng biện pháp giải quyết và các bên có thể chấp thuận hoặc từ chối biện pháp này, hoặc đề xuất áp dụng một biện pháp khác. Hòa giải viên không có thẩm quyền áp đặt giải pháp đối với các bên. Khi các bên hòa giải thành, để kết quả hòa giải thành có tính bắt buộc thi hành, văn bản về kết quả hòa giải thành phải được trình cho tòa án để toà án công nhận theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự. Trường hợp các bên không hòa giải thành, các bên có thể tiếp tục giải quyết tranh chấp tại Trọng tài hoặc Tòa án, tùy vào sự thỏa thuận của các bên.

• Về phương thức trọng tài:

Để giải quyết theo phương thức này, các bên buộc phải có thỏa thuận trọng tài, thỏa thuận này có thể được lập trước hoặc sau khi xảy ra tranh chấp. Tùy vào thỏa thuận của các bên mà trọng tài giải quyết vụ việc có thể là Trung tâm trọng tài hoặc Trọng tài vụ việc. Khi các bên đạt được thỏa thuận giải quyết tranh chấp, Hội đồng trọng tài sẽ lập biên bản hòa giải thành, sau đó ban hành quyết định công nhận sự thỏa thuận của các bên. Quyết định này là chung thẩm và có giá trị như một phán quyết trọng tài. Phán quyết trọng tài mang tính bắt buộc đối với các bên, đây là điểm lợi thế hơn so với phương thức thương lượng và hòa giải.

• Về phương thức Tòa án:

Đây là phương thức phổ biến nhất mà các bên áp dụng để giải quyết tranh chấp phát sinh từ hoặc liên quan đến hợp đồng thế chấp tài sản sau khi việc thương lượng, đàm phán không thành. Để giải quyết tranh chấp tại Tòa án, một trong các bên phải gửi đến Tòa án đơn khởi kiện thể hiện rõ tình tiết vụ việc, yêu cầu khởi kiện cũng như các chứng cứ có liên quan. Trong quá trình giải quyết tại Tòa án, nguyên đơn phải thực hiện một số việc như nộp tạm ứng án phí; tham gia các buổi làm việc, phiên họp tại Tòa án; chuẩn bị bản tự khai, bản giải trình, các văn bản khác theo yêu cầu của Thẩm phán; cung cấp bổ sung chứng cứ; tham gia phiên xét xử;… Bản án/ quyết định của Tòa án sẽ mang tính bắt buộc đối với các bên, nếu một bên không tự nguyện thi hành thì bên còn lại có quyền yêu cầu thi hành án tại cơ quan thi hành dân sự có thẩm quyền.

Trên đây là bài viết “Phương thức giải quyết tranh chấp phát sinh từ hợp đồng thế chấp tài sản” mà TNTP gửi tới độc giả. TNTP hy vọng bài viết này sẽ mang lại những giá trị hữu ích cho độc giả.

Trân trọng,

ÁN LỆ SỐ 50/2021/AL Về quyền khởi kiện vụ án đòi lại tài sản của người được giao tài sản theo bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật

Trong thực tiễn xét xử còn tồn tại các quan điểm khác nhau về quyền khởi kiện lại vụ án khi Tòa án đã ban hành quyết định đình chỉ giải quyết vụ án dân sự. Án lệ số 50/2021/AL là một ví dụ của việc Tòa án phải xác định đương sự có quyền khởi kiện lại vụ án hay không? Đây là trường hợp mà Bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật của Tòa án giải quyết việc phân chia tài sản nhưng bản án, quyết định này chưa được thi hành do người được thi hành án không yêu cầu thi hành án và chưa nhận tài sản trên thực tế. Khi hết thời hiệu yêu cầu thi hành án, người được Tòa án giao tài sản mới có tranh chấp đòi lại tài sản được giao theo bản án, quyết định đã được ban hành. Theo đây, TNTP sẽ phân tích rõ hơn về nhận định của Tòa án trong trường hợp này

1. Nội dung vụ án:

a) Tại đơn khởi kiện đề ngày 04/01/2005, nguyên đơn ông Nguyễn Văn N trình bày: ông và bà Nguyễn Thị T kết hôn vào năm 1963, ông bà có một ngôi nhà tọa lạc trên thửa đất tại thôn B, xã X (nay là nhà số 04 đường H, khu vực A, phường C, thành phố Huế) diện tích 1.490m2. Năm 1968 ông N thoát ly ra miền Bắc đến năm 1975 ông N về quê thì bà T đã có chồng khác nên ông bà xin ly hôn.

b) Tại Bản án dân sự phúc thẩm số 43/DSPT ngày 13/5/1977, Tòa án nhân dân tỉnh Bình Trị Thiên đã xử cho ông N và bà T ly hôn. Về tài sản, ông N được quyền sử dụng một phần đất trong khuôn viên thửa đất nói trên, phần đất này có ngôi mộ của bố ông N, có bản vẽ phân chia ranh giới do Tòa án lập kèm theo bản án. Sau khi bản án phúc thẩm có hiệu lực, ông N đã thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con, cơ quan chức năng đã tiến hành chia đo đất theo bản vẽ của Tòa án.

c) Năm 2001, ông N về quê xây nhà thờ tổ tiên thì bà T cản trở, nên ông khởi kiện yêu cầu bà T trả lại tài sản là quyền sử dụng đất theo bản án, yêu cầu bà T phục hồi lại hiện trạng ranh giới như bản án đã phân chia.

d) Bị đơn bà Nguyễn Thị T thừa nhận có kết hôn với ông N, sau đó ly hôn theo Bản án số 43 ngày 13/5/1977. Năm 1968 ông N ra miền Bắc đến năm 1969 có giấy báo tử của ông N nên bà T đã lấy chồng khác. Từ ngày có bản án, người được thi hành án là ông N không có đơn yêu cầu thi hành án nên bà T không chấp nhận trả lại đất cho ông N vì bà cho rằng đất đai là của bố bà T để lại cho bà.

e) Tại Bản án dân sự sơ thẩm số 08/2006/DSST ngày 21/6/2006 Tòa án nhân dân thành phố Huế, tỉnh Thừa Thiên Huế quyết định:
Chấp nhận yêu cầu của ông Nguyễn Văn N buộc bà Nguyễn Thị T trả lại quyền sử dụng đất diện tích 452,85m2 (có cạnh 37,5; 38,55; 36,14) là tài sản được xác lập theo Bản án số 43/DSPT ngày 13/5/1977 trên đó có ngôi mộ của cha ông N trong thửa đất số 42 tờ bản đồ địa chính số 28 diện tích 1.997,06m2 tại nhà số 04 đường H, khu vực A, phường C, thành phố Huế (vị trí thửa đất của ông N có bản vẽ kèm theo).

f) Sau khi xét xử sơ thẩm, bà T kháng cáo.

g) Tại Bản án dân sự phúc thẩm số 55/2006/DSPT ngày 11/12/2006 của Tòa án nhân dân tỉnh Thừa Thiên Huế quyết định:

Hủy toàn bộ Bản án dân sự sơ thẩm số 08/2006/DSST ngày 21/6/2006 của Tòa án nhân dân thành phố Huế, tỉnh Thừa Thiên Huế về việc tranh chấp đòi tài sản quyền sử dụng đất giữa nguyên đơn là ông Nguyễn Văn N và bị đơn là bà Nguyễn Thị T. Đình chỉ việc giải quyết vụ án. Trả lại đơn khởi kiện cho ông Nguyễn Văn N.

h) Sau khi xét xử phúc thẩm, ông N khiếu nại.

i) Tại Quyết định kháng nghị số 708/2009/KN-DS ngày 10/12/2009 Chánh án Tòa án nhân dân tối cao kháng nghị đối với Bản án dân sự phúc thẩm số 55/2006/DSPT ngày 11/12/2006 của Tòa án nhân dân tỉnh Thừa Thiên Huế, với nhận xét:

• Quyền sử dụng đất của ông N đã được xác định tại Bản án phúc thẩm số 43/DSPT ngày 13/5/1977. Ông N có quyền kiện đòi tài sản bằng vụ án dân sự mới. Tòa án cấp phúc thẩm xác định ông N không có quyền khởi kiện trả lại đơn khởi kiện cho ông N là không hợp lý.

• Đề nghị Tòa Dân sự Tòa án nhân dân tối cao xét xử giám đốc thẩm hủy bản án dân sự phúc thẩm nêu trên và hủy Bản án dân sự sơ thẩm số 08/2006/DSST ngày 21/6/2006 của Tòa án nhân dân thành phố Huế, tỉnh Thừa Thiên Huế; giao hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân dân thành phố Huế, tỉnh Thừa Thiên Huế xét xử sơ thẩm lại theo đúng quy định của pháp luật.

j) Tại phiên tòa giám đốc thẩm, đại diện Viện kiểm sát nhân dân tối cao nhất trí với kháng nghị của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao.

2. Nhận định của Tòa án:

• Căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án, có cơ sở kết luận: Ông Nguyễn Văn N và bà Nguyễn Thị T kết hôn vào năm 1963. Vợ chồng ông N, bà T có một ngôi nhà tọa lạc trên thửa đất tại thôn B, xã X (nay là nhà số 04 đường H, khu vực A, phường C, thành phố Huế) diện tích 1.490m2. Năm 1968, ông N thoát ly ra miền Bắc đến năm 1975 ông N về quê thì bà T đã có chồng khác nên ông bà xin ly hôn.

• Tại Bản án phúc thẩm số 43 ngày 13/5/1977, Tòa án nhân dân tỉnh Bình Trị Thiên đã xử cho ông N, bà T ly hôn, quyết định về trách nhiệm nuôi dưỡng con và phân chia tài sản. Theo quyết định trong bản án, ông N được hưởng một phần đất trong khuôn viên thửa đất nêu trên (có sơ đồ phân chia ranh giới do Tòa án lập kèm theo bản án). Do điều kiện công tác xa nhà nên ông N vẫn để nguyên hiện trạng đất, năm 2001 ông N về quê định xây nhà thờ tổ tiên thì bà T cản trở, hai bên không thống nhất về ranh giới đất và bà T không đồng ý trả đất cho ông N. Vì vậy, ông N khởi kiện yêu cầu bà T trả lại phần đất theo Bản án phúc thẩm đã có hiệu lực pháp luật.

• Thực tế, từ trước đến nay, bà T vẫn là người quản lý, sử dụng phần đất mà Tòa án nhân dân tỉnh Bình Trị Thiên đã giao cho ông N. Theo bà T thì ông N chưa có đơn yêu cầu thi hành án và Bản án phúc thẩm nêu trên chưa được thi hành, nay đã hết thời hiệu thi hành án theo quy định của pháp luật.

Nội dung Án lệ: Theo quy định của pháp luật thì quyền sử dụng đất của ông N đối với đất tranh chấp đã được xác định tại Bản án phúc thẩm số 43 ngày 13/5/1977 của Tòa án nhân dân tỉnh Bình Trị Thiên. Tòa án không được giải quyết lại quan hệ ai là chủ sử dụng đất hợp pháp, nhưng kiện đòi lại tài sản lại là quan hệ pháp luật khác. Nếu còn thời hiệu thi hành án thì ông N có quyền yêu cầu cơ quan thi hành án cưỡng chế thực hiện giao đất theo Bản án số 43 ngày 13/5/1977 của Tòa án nhân dân tỉnh Bình Trị Thiên. Tuy nhiên, nay đã hết thời hiệu yêu cầu thi hành án thì ông N có quyền khởi kiện đòi lại tài sản bằng vụ án dân sự mới. Trong trường hợp này, nếu không có căn cứ xác định ông N đã từ bỏ quyền tài sản thì phải chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông N.

• Tòa án cấp phúc thẩm xác định ông N không có quyền khởi kiện, trả lại đơn khởi kiện cho ông N là không có căn cứ. Mặt khác, Tòa án các cấp cũng chưa xác minh, xem xét việc quản lý, sử dụng đất, việc kê khai và nộp thuế; ý kiến của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền của Nhà nước công nhận hay không công nhận quyền sử dụng hợp pháp đối với phần đất này.

• Tòa án cấp sơ thẩm chấp nhận yêu cầu của ông N buộc bà T trả lại quyền sử dụng diện tích 452,85m2 là tài sản được xác lập theo Bản án số 43/DSPT ngày 13/5/1977 trên có ngôi mộ của cha ông N nhưng không tính công sức giữ gìn, tu bổ bảo quản đất cho bà T cũng như khoản tiền bà T nộp thuế đất là không đúng. Tòa án cấp phúc thẩm hủy toàn bộ bản án sơ thẩm của Tòa án nhân dân thành phố Huế đình chỉ giải quyết vụ án; trả lại đơn khởi kiện cho ông N là không đúng quy định của pháp luật.

• Vì vậy, kháng nghị của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao là có căn cứ chấp nhận.

3. Bình luận Án lệ:

• Về thời hiệu yêu cầu thi hành án dân sự:

– Tại Khoản 1 Điều 30 Luật Thi hành án dân sư 2008 (“Luật THADS”) quy định: “Trong thời hạn 05 năm, kể từ ngày bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật, người được thi hành án, người phải thi hành án có quyền yêu cầu cơ quan thi hành án dân sự có thẩm quyền ra quyết định thi hành án.”

– Như vậy, thời hiệu để yêu cầu thi hành án dân sự là 05 năm, nếu sau thời gian này, người được thi hành án không yêu cầu cơ quan Thi hành án dân sự có thẩm quyền ra quyết định thi hành án thì bản án đó được xem là hết hiệu lực, trừ khi người được thi hành án có thể chứng minh mình có lí do không làm yêu cầu thi hành án đúng hạn được (Khoản 3 Điều 30 Luật THADS 2008).

Đối chiếu với vụ án này, Bản án dân sự phúc thẩm số 43/DSPT được ban hành ngày 13/5/1977 nhưng đến năm 2001 ông N mới về quê xây nhà thờ tổ tiên. Theo quy định thì hạn cuối cùng mà ông N có quyền yêu cầu thi hành án dân sự là năm 1982, tức là ông N đã hết thời hiệu yêu cầu thi hành án dân sự theo Bản án dân sự phúc thẩm số 43/DSPT.

• Về quyền khởi kiện đòi lại tài sản bằng vụ án dân sự mới:

– Theo nội dung của Bản án dân sự phúc thẩm số 43/DSPT ngày 13/5/1977 cho thấy Tòa án quyết định ông N được quyền sử dụng một phần đất trong khuôn viên thửa đất có ngôi mộ của bố ông N, tức là bản án này chỉ ghi nhận nội dung ông N được phân chia thửa đất như thế nào khi ly hôn. Việc này hoàn toàn khác đối với việc ông N khởi kiện yêu cầu bà T khi ông N bị bà T cản trở việcxây nhà thờ tổ tiên, tức là khởi kiện đòi lại tài sản – là một vụ kiện hoàn toàn mới và không liên quan đến yêu cầu khởi kiện giải quyết tranh chấp dân sự (ly hôn).

– Theo Điều 256 Bộ luật Dân sự 2005 (“BLDS”) quy định “Chủ sở hữu, người chiếm hữu hợp pháp có quyền yêu cầu người chiếm hữu, người sử dụng tài sản, người được lợi về tài sản không có căn cứ pháp luật đối với tài sản thuộc quyền sở hữu hoặc quyền chiếm hữu hợp pháp của mình phải trả lại tài sản đó…”

Yêu cầu khởi kiện đòi tài sản là yêu cầu mà ông N chưa thực hiện gửi tới Tòa án tại các vụ án trước đó. Vì vậy, việc tòa án cấp phúc thẩm hủy bản án sơ thẩm và đình chỉ giải quyết vụ án là không hợp lý. Đồng thời, chúng ta cũng xác định được ông N quay về quê để xây nhà thờ tổ tiên là một căn cứ để xem xét xác định ông N không từ bỏ quyền tài sản của mình. Do vậy, hoàn toàn có căn cứ để chấp nhận yêu cầu khởi kiện đòi tài sản của ông N.

Trên đây là bài viết của TNTP về “Án lệ số 50/2021/AL về quyền khởi kiện vụ án đòi lại tài sản của người được giao tài sản theo bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật”. Chúng tôi mong bài viết này sẽ giúp ích cho các quý bạn đọc.

Trân trọng,

Những nội dung cần lưu ý khi giao kết hợp đồng thế chấp tài sản

Hoạt động cho vay của các tổ chức, cá nhân luôn tiềm ẩn nhiều rủi ro bởi nhiều nguyên nhân như bên vay không trả nợ, trả nợ không đầy đủ, không đúng hạn, bên vay mất khả năng thanh toán,… Để hạn chế phần nào các rủi ro này, bên cho vay thường yêu cầu bên vay thực hiện các biện pháp bảo đảm kèm theo như cầm cố, thế chấp tài sản, bảo lãnh của người thứ ba,… Trong các biện pháp này, thế chấp tài sản là biện pháp thường được bên cho vay lựa chọn. Để áp dụng biện pháp này, các bên phải ký kết hợp đồng thế chấp tài sản. Trong bài viết này, TNTP sẽ trình bày những nội dung mà các bên cần lưu ý khi ký kết hợp đồng thế chấp tài sản.

1. Hình thức của hợp đồng thế chấp tài sản

Khoản 1 Điều 319 Bộ luật Dân sự 2015 quy định rằng “Hợp đồng thế chấp tài sản có hiệu lực từ thời điểm giao kết, trừ trường hợp có thỏa thuận khác hoặc luật có quy định khác”. Như vậy, quy định nêu trên đã ngầm khẳng định việc thế chấp tài sản chỉ được ghi nhận nếu các bên ký kết hợp đồng thế chấp. Trong trường hợp bên có nghĩa vụ không thực hiện hoặc thực hiện không đúng, không đầy đủ nghĩa vụ của mình thì bên nhận thế chấp có quyền xử lý tài sản thế chấp.

Trên thực tế, nội dung về thế chấp tài sản có thể được lập thành văn bản riêng rẽ (thường gọi là hợp đồng thế chấp) hoặc được ghi nhận dưới dạng các điều khoản trong hợp đồng chính (hợp đồng vay tài sản). Tuy nhiên, đối với một số loại tài sản thế chấp, pháp luật có quy định về việc văn bản thế chấp phải được công chứng, chứng thực, đăng ký giao dịch bảo đảm nên các bên thường ưu tiên lập hợp đồng thế chấp. Ví dụ, hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất, tài sản khác gắn liền với đất phải được công chứng hoặc chứng thực.

2. Nội dung của hợp đồng thế chấp tài sản

Pháp luật hiện hành không có quy định về các nội dung bắt buộc phải có trong hợp đồng thế chấp. Do vậy, các bên sẽ quy định những điều khoản phù hợp với hoàn cảnh và tình hình thực tế của mình. Những điều khoản cơ bản nên có trong hợp đồng thế chấp bao gồm:

• Thông tin của bên thế chấp và bên nhận thế chấp;

• Thông tin tài sản thế chấp như loại tài sản thế chấp, số lượng, giá trị tài sản thế chấp;

• Thông tin về khoản vay theo Hợp đồng cho vay tài sản được bên thế chấp bảo đảm thực hiện;

• Quyền và nghĩa vụ của các bên;

• Trách nhiệm do vi phạm hợp đồng;

• Phương thức giải quyết tranh chấp;

• Xử lý tài sản thế chấp;

• Các trường hợp chấm dứt hợp đồng thế chấp tài sản và hậu quả pháp lý;

• Hiệu lực của hợp đồng; …

3. Hiệu lực của hợp đồng thế chấp tài sản và hiệu lực đối kháng với bên thứ ba

Căn cứ Khoản 1 Điều 319 Bộ luật Dân sự 2015 và Điều 22 Nghị định 21/2021/NĐ-CP, hợp đồng thế chấp tài sản có hiệu lực từ thời điểm giao kết, trừ trường hợp có thỏa thuận khác hoặc luật có quy định khác như các quy định về công chứng, chứng thực. Biện pháp thế chấp chưa phát sinh hiệu lực đối kháng với người thứ ba không làm thay đổi hoặc không làm chấm dứt hiệu lực của hợp đồng thế chấp.

Theo đó, biện pháp thế chấp chỉ phát sinh hiệu lực đối kháng với người thứ ba trong trường hợp hợp đồng thế chấp đã có hiệu lực pháp luật. Thời điểm phát sinh hiệu lực đối kháng với bên thứ ba là thời điểm đăng ký. Nghị định 99/2022/NĐ-CP quy định các trường hợp phải đăng ký và các trường hợp đăng ký theo yêu cầu liên quan đến thế chấp tài sản. Các trường hợp thế chấp phải đăng ký bao gồm: thế chấp quyền sử dụng đất, thế chấp nhà ở, tài sản khác gắn liền với đất trong trường hợp tài sản đã được chứng nhận quyền sở hữu trên Giấy chứng nhận, thế chấp tàu bay, thế chấp tàu biển,… Đối với các loại tài sản khác, các bên có quyền thỏa thuận về việc có đăng ký biện pháp thế chấp hay không.

Hợp đồng thế chấp tài sản sẽ chấm dứt hiệu lực khi xảy ra một trong các sự kiện như: (i) Nghĩa vụ được bảo đảm bằng thế chấp chấm dứt; (ii) Việc thế chấp tài sản được hủy bỏ hoặc được thay thế bằng biện pháp bảo đảm khác; (iii) Tài sản thế chấp đã được xử lý; và (iv) Các trường hợp khác theo thỏa thuận của các bên.

Trên đây là bài viết “Những nội dung cần lưu ý khi giao kết hợp đồng thế chấp tài sản”. Trường hợp độc giả có bất kỳ vấn đề nào cần trao đổi với TNTP, vui lòng liên hệ với TNTP để được hỗ trợ kịp thời.

Trân trọng,

ÁN LỆ SỐ 23/2018/AL VỀ HIỆU LỰC CỦA HỢP ĐỒNG BẢO HIỂM NHÂN THỌ KHI BÊN MUA BẢO HIỂM KHÔNG ĐÓNG PHÍ BẢO HIỂM DO LỖI CỦA DOANH NGHIỆP BẢO HIỂM

Bảo hiểm nhân thọ là sản phẩm của các công ty kinh doanh bảo hiểm, được thiết lập thành các Hợp đồng bảo hiểm nhân thọ với các quyền lợi, điều khoản rõ ràng nhằm bảo vệ người tham gia trước những biến cố sức khỏe hoặc các rủi ro về thân thể, tính mạng. Vì vậy, rất nhiều người đã tham gia đóng tiền bảo hiểm nhân thọ theo các hình thức đóng phí đình kỳ khác nhau. Trong thực tế xảy ra nhiều trường hợp khách hàng ngưng đóng phí làm ảnh hưởng hiệu lực của Hợp đồng bảo hiểm nhân thọ. Thông thường việc khách hàng không đóng phí là lỗi về nghĩa vụ của khách hàng trong việc thực hiện Hợp đồng. Tuy nhiên, thực tiễn xảy ra trường hợp khách hàng không đóng phí do lỗi của công ty bảo hiểm. Án lệ số 23/2018/AL là một trường hợp điển hình của vấn đề này. Trong bài viết này, TNTP sẽ nêu rõ hơn về nhận định của Tòa án về trường hợp này.

1. Nội dung vụ án:

a) Nguyên đơn bà Phạm Thị T trình bày:

Chồng của bà là Trần Hữu L có đăng ký mua bảo hiểm của Công ty trách nhiệm hữu hạn Bảo hiểm nhân thọ P. Chồng của bà bị tai nạn chết. Theo hợp đồng bà là người thụ hưởng. Nay bà yêu cầu bị đơn trả số tiền bảo hiểm là 300 triệu đồng và tiền lãi theo mức lãi suất cơ bản tính từ tháng 8-2005 đến nay là 126 triệu đồng, tổng cộng là 426 triệu đồng.

b) Bị đơn Công ty trách nhiệm hữu hạn Bảo hiểm nhân thọ P có đại diện theo ủy quyền ông Nguyễn Quốc T trình bày:

Ông L phải nộp phí bảo hiểm lần II vào ngày 24-6-2005, sau đó được gia hạn thêm hai tháng nhưng vẫn không nộp tiền. Ông L chết ngày 27-8-2005 là thời điểm hợp đồng bảo hiểm đã mất hiệu lực 03 ngày. Vì thế bị đơn không chấp nhận trả tiền theo yêu cầu của nguyên đơn.

c) Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Vũ Thị Minh N trình bày:

Bà là đại lý của bị đơn, đã bán bảo hiểm cho ông L. Bà thỏa thuận với ông L là đến kỳ thu phí bảo hiểm, bà sẽ trực tiếp thu phí tại nhà ông L. Nhưng đến kỳ hạn cuối thu tiền bà phải đi học chính trị ở tỉnh nên không thu phí được. Việc không nộp tiền được là do khách quan, nên bà yêu cầu bị đơn phải trả tiền bảo hiểm cho nguyên đơn.

d) Tại Bản án dân sự sơ thẩm số 38/2008/DS-ST ngày 21-8-2008 của Toà án nhân dân Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh đã quyết định:

• Không chấp nhận yêu cầu của bà Phạm Thị T đòi Công ty trách nhiệm hữu hạn Bảo hiểm nhân thọ P trả tiền bảo hiểm và tiền lãi do chậm thanh toán là 426.000.000 đồng.
• Về án phí: Bà Phạm Thị T phải chịu án phí dân sự sơ thẩm là 7.890.000 đồng, nhưng được khấu trừ số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 6.000.000 đồng theo biên lai thu tiền số 2185 ngày 09-6-2006 của Thi hành án dân sự Thành phố Hồ Chí Minh. Bà T còn phải nộp 1.890.000 đồng.

e) Ngày 01-9-2008 bà Phạm Thị T kháng cáo.

f) Tại phiên toà phúc thẩm:

• Nguyên đơn không rút yêu cầu khởi kiện và yêu cầu kháng cáo.
• Các đương sự không thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết việc kiện.
• Bà T trình bày yêu cầu kháng cáo là đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu của bà buộc Công ty trách nhiệm hữu hạn Bảo hiểm nhân thọ P trả tiền bảo hiểm và tiền lãi do chậm thanh toán là 426.000.000 đồng. Với lý do vì người của công ty không đến thu tiền bảo hiểm chứ không phải bà không đóng. Luật sư bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp cho bà T đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu này của bà T.
• Ông Nguyễn Quốc T đại diện của Công ty trách nhiệm hữu hạn Bảo hiểm nhân thọ P cùng luật sư bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp đề nghị hội đồng xét xử y án sơ thẩm.

2. Nhận định của Tòa án:

• Đơn kháng cáo của bà Phạm Thị T làm trong hạn luật định, hợp lệ.

• Nội dung Án lệ: Căn cứ hồ sơ yêu cầu bảo hiểm nhân thọ (bút lục 15-17) thể hiện địa chỉ để Công ty trách nhiệm hữu hạn Bảo hiểm nhân thọ P thu phí là tại nhà số 231 ấp 3, xã B, huyện G, tỉnh Bến Tre là nhà của ông L. Điều này cũng phù hợp với lời khai của bà N là đại lý bán bảo hiểm và thu phí của Công ty trách nhiệm hữu hạn Bảo hiểm nhân thọ P.

• Xét yêu cầu kháng cáo của bà T cho rằng việc ông L không đóng phí bảo hiểm đúng hạn là do phía công ty không cử người đến thu là có cơ sở như chứng cứ nêu trên.

• Căn cứ giấy xác nhận của công an xã B cho thấy ông L chết vào ngày 27-8-2005 là do bất cẩn té đập đầu chấn thương sọ não gây tử vong.

• Nội dung Án lệ: Xét ông L đã ký hợp đồng bảo hiểm thông qua hình thức hồ sơ yêu cầu bảo hiểm nhân thọ với mức bảo hiểm là 300.000.000 đồng, việc ông L chưa đóng phí đợt 2 như đã phân tích ở trên là không phải lỗi của ông L do đó yêu cầu kháng cáo của bà T buộc Công ty trách nhiệm hữu hạn Bảo hiểm nhân thọ P phải chi trả tiền bảo hiểm khi ông L tử vong do tai nạn là có cơ sở để chấp nhận.

• Nội dung Án lệ: Xét yêu cầu của đại diện Công ty trách nhiệm hữu hạn Bảo hiểm nhân thọ P cho rằng ông L không đóng phí bảo hiểm đợt 2 hạn chót là ngày 24-8-2005 và ông L đã chết ngày 27-8-2005, như vậy hợp đồng bảo hiểm của ông L đã hết hiệu lực là không có cơ sở. Bởi lẽ như đã phân tích ở trên, lý do ông L không đóng phí bảo hiểm là do nhân viên công ty không đến thu phí. Điều này cũng thể hiện rõ tại trang 5 quyển những thông tin khách hàng cần biết nêu rõ việc thu phí tại nhà gồm có thu phí hàng quý, hàng 6 tháng, hàng năm, hoặc cùng một địa chỉ có từ 2 hợp đồng trở lên, phù hợp với trường hợp của ông L đã mua 03 hợp đồng của Công ty trách nhiệm hữu hạn Bảo hiểm nhân thọ P là của ông L, bà T, bà H. Do đó Hội đồng xét xử không chấp nhận yêu cầu của đại diện Công ty trách nhiệm hữu hạn Bảo hiểm nhân thọ P, cũng như lời đề nghị của luật sư bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp cho Công ty trách nhiệm hữu hạn Bảo hiểm nhân thọ P.

• Xét yêu cầu của bà T buộc Công ty trách nhiệm hữu hạn Bảo hiểm nhân thọ P phải trả tiền lãi chậm trả từ 27-8-2005 đến ngày Tòa án xét xử là không có cơ sở. Vì tại giấy chứng nhận bảo hiểm do Công ty trách nhiệm hữu hạn Bảo hiểm nhân thọ P cấp cho ông L không thể hiện điều khoản về lãi suất, vì vậy Hội đồng xét xử không chấp nhận yêu cầu này của bà T.

• Do đó Hội đồng xét xử chấp nhận một phần yêu cầu kháng cáo của bà T, sửa án sơ thẩm buộc Công ty trách nhiệm hữu hạn Bảo hiểm nhân thọ P phải trả tiền bảo hiểm theo hợp đồng tử vong do tai nạn của ông L là 300.000.000 đồng mà người thụ hưởng là bà T.

3. Bình luận Án lệ:

• Căn cứ Khoản 2 Điều 23 Luật Kinh doanh bảo hiểm 2000 (sửa đổi bổ sung 2010) về chấm dứt hợp đồng bảo hiểm: “Bên mua bảo hiểm không đóng đủ phí bảo hiểm hoặc không đóng phí bảo hiểm theo thời hạn thoả thuận trong hợp đồng bảo hiểm, trừ trường hợp các bên có thoả thuận khác”

Theo quy định trên đối chiếu với vụ việc thì các bên đã có thỏa thuận khác về việc đóng phí bảo hiểm, trên cơ sở các chứng cứ đã được xác nhận, ông L sẽ đóng phí tại nhà khi có nhân viên Công ty P đến thu tiền. Do đó, lỗi ở đây không thuộc về ông L. Như vậy, Công ty P phải chi trả tiền bảo hiểm khi ông L tử vong do tai nạn là có cơ sở để chấp nhận.

• Về việc Công ty P cho rằng hợp đồng bảo hiểm của ông L đã hết hiệu lực là không có cơ sở. Bởi lẽ ông L không đóng phí bảo hiểm là do nhân viên công ty không đến thu phí. Điều này cũng thể hiện rõ tại trang 5 quyển những thông tin khách hàng cần biết nêu rõ việc thu phí tại nhà gồm có thu phí hàng quý, hàng 6 tháng, hàng năm, hoặc cùng một địa chỉ có từ 2 hợp đồng trở lên, phù hợp với trường hợp của ông L đã mua 03 hợp đồng của Công ty trách nhiệm hữu hạn Bảo hiểm nhân thọ P là của ông L, bà T, bà H. Do đó Hội đồng xét xử không chấp nhận yêu cầu của đại diện Công ty P, cũng như lời đề nghị của luật sư bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp cho Công ty P là có cơ sở.

Trên đây là bài viết của TNTP về “Án lệ số 23/2018/AL về hiệu lực của hợp đồng bảo hiểm nhân thọ khi bên mua bảo hiểm không đóng phí bảo hiểm do lỗi của doanh nghiệp bảo hiểm”. Chúng tôi mong bài viết này sẽ giúp ích cho các quý bạn đọc.

Trân trọng,

Công ty có được trừ lương người lao động không?

Trong bối cảnh kinh tế Việt Nam, việc trừ lương của người lao động là một vấn đề nổi cộm, đặc biệt là khi xem xét tính pháp lý và công bằng của việc này. Tuy nhiên, câu hỏi được đặt ra là liệu việc trừ lương có phải là phương pháp hợp lý và có công bằng cho cả hai bên hay không. Trong bài viết dưới đây, TNTP sẽ trình bày những nội dung mà doanh nghiệp cũng như người lao động cần lưu ý đối với việc trừ lương người lao động.

1. Các trường hợp công ty được trừ lương:

• Căn cứ Điều 124 Bộ Luật Lao động năm 2019 quy định về các hình thức xử lý kỷ luật lao động đối với người lao động gồm: Khiển trách, kéo dài thời hạn nâng lương không quá 6 tháng, cách chức, sa thải.

• Đồng thời theo quy định tại khoản 2 Điều 127 Bộ luật Lao động 2019 quy định về việc nghiêm cấm người sử dụng lao động phạt tiền, cắt lương thay việc xử lý kỷ luật lao động.

Như vậy, mặc dù công ty, người sử dụng lao động có thể sử dụng những biện pháp kỷ luật để quản lý nhân sự và duy trì kỷ luật trong công ty nhưng hành vi khấu trừ tiền lương thay cho việc xử lý kỷ luật lao động là hành vi bị cấm khi xử lý kỷ luật lao động. Do đó, công ty không được trừ lương người lao động để xử lý kỷ luật.

• Tuy nhiên, trên thực tế có không ít trường hợp công ty, người chủ sử dụng lao động tự ý trừ lương người lao động một cách tùy tiện. Căn cứ theo Điều 102 của Bộ luật Lao động 2019, doanh nghiệp chỉ được khấu trừ lương người lao động trong các trường hợp sau:

– Người lao động làm hỏng dụng cụ, thiết bị hoặc có hành vi gây thiệt hại tài sản của doanh nghiệp.

– Người lao động làm mất dụng cụ, thiết bị, tài sản của người sử dụng lao động hoặc tài sản khác do người sử dụng lao động giao.

– Người lao tiêu hao vật tư quá định mức cho phép thì phải bồi thường thiệt hại một phần hoặc toàn bộ theo thời giá thị trường hoặc nội quy lao động.

Theo đó, công ty chỉ được khấu trừ tiền lương của người lao động để bồi thường thiệt hại do làm hư hỏng dụng cụ, thiết bị, tài sản của công ty, tiêu hao vật tư quá định mức cho phép thì phải bổi thường thiệt hại.

2. Quy định về việc khấu trừ lương người lao động

Theo Điều 102 và Điều 129 Bộ luật Lao động 2019, việc khấu trừ lương người lao động để bồi thường thiệt hại cũng phải tuân thủ theo những quy định sau đây:

• Mức bồi thường thiệt hại:

– Trường hợp người lao động gây thiệt hại không nghiêm trọng do sơ suất nếu giá trị bồi thường thiệt hại không quá 10 tháng lương tối thiểu vùng thì người lao động phải bồi thường nhiều nhất là 03 tháng tiền lương và bị khấu trừ hằng tháng vào lương. Nhưng mức khấu không được quá 30% tiền lương thực trả hằng tháng của người lao động sau khi trích nộp các khoản bảo hiểm.

– Trường hợp làm tiêu hao vật tư quá định mức cho phép thì phải bồi thường thiệt hại một phần hoặc toàn bộ theo thời giá thị trường. Trường hợp có hợp đồng trách nhiệm thì phải bồi thường theo hợp đồng trách nhiệm.

– Trường hợp do thiên tai, hoả hoạn, địch họa, dịch bệnh, thảm họa, sự kiện xảy ra khách quan không thể lường trước được và không thể khắc phục được mặc dù đã áp dụng mọi biện pháp cần thiết và khả năng cho phép thì không phải bồi thường.

• Thông báo lý do khấu trừ lương: Người lao động có quyền được biết lý do khấu trừ tiền lương của mình, việc trừ lương phải thông báo rõ ràng, minh bạch.

3. Xử lý vi phạm trong trường hợp công ty trừ lương người lao động trái quy định pháp luật.

• Theo quy định tại khoản 3 Điều 19 Nghị định 12/2022/NĐ-CP, trừ các trường hợp được phép khấu trừ lương nêu tại mục 1, công ty có hành vi tự ý trừ lương người lao động có thể bị xử phạt vi phạm hành chính với mức phạt tiền từ 20.000.000 đồng đến 40.000.000 đồng đối với người sử dụng lao động có hành vi dùng hình thức phạt tiền hoặc cắt lương thay việc xử lý kỷ luật lao động.

• Đồng thời theo khoản 4 Điều 19 Nghị định 12/2022/NĐ-CP cũng quy định biện pháp khắc phục hậu quả đối với hành vi cắt lương thay cho việc xử lý kỷ luật lao động là: Buộc người sử dụng lao động trả lại khoản tiền đã thu hoặc trả đủ tiền lương cho người lao động.

4. Giải pháp cho công ty

• Nâng cao nhận thức pháp luật: Công ty và người lao động cần được đào tạo về quy định pháp luật liên quan đến việc khấu trừ lương và kỷ luật lao động để tránh vi phạm và bảo vệ quyền lợi.

• Áp dụng quy trình công bằng: Quy trình xử lý kỷ luật và khấu trừ lương cần công bằng, minh bạch và nhất quán, đảm bảo người lao động có cơ hội giải thích và bảo vệ quyền lợi.

• Tham vấn ý kiến tư vấn của luật sư hoặc chuyên gia pháp lý: Công ty cũng như người lao động nên tìm kiếm sự hỗ trợ từ luật sư hoặc chuyên gia pháp lý để được tư vấn và hỗ trợ về các vấn đề pháp lý liên quan đến lao động. Luật sư hoặc chuyên gia pháp lý có thể giúp công ty đánh giá và quản lý các rủi ro pháp lý, đảm bảo rằng mọi hoạt động đều tuân thủ đúng quy định của pháp luật.

Công ty cần tuân thủ chặt chẽ các quy định pháp luật về khấu trừ lương để bảo vệ quyền lợi người lao động và duy trì môi trường làm việc công bằng, minh bạch. Việc áp dụng các biện pháp, quản lý minh bạch, quy trình xử lý kỷ luật công bằng hiệu quả, cùng với việc xây dựng môi trường làm việc tích cực và tham vấn ý kiến của luật sư hoặc chuyên gia pháp lý, sẽ giúp công ty phát triển bền vững và tạo dựng niềm tin từ người lao động.

Trên đây là bài viết “Công ty có được trừ lương người lao động không?” mà TNTP gửi đến Quý bạn đọc. Trường hợp có vấn đề cần trao đổi, vui lòng liên hệ với TNTP để được hỗ trợ.

Trân trọng,

Công ty Luật TNHH Quốc Tế TNTP và Các Cộng Sự

  • Văn phòng tại Hồ Chí Minh:
    Phòng 1901, Tầng 19 Tòa nhà Saigon Trade Center, 37 Tôn Đức Thắng, Phường Bến Nghé, Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh
  • Văn phòng tại Hà Nội:
    Số 2, Ngõ 308 Tây Sơn, Phường Thịnh Quang, Quận Đống Đa, Hà Nội
  • Email: ha.nguyen@tntplaw.com


    Bản quyền thuộc về: Công ty Luật TNHH Quốc Tế TNTP và Các Cộng Sự