Skip to main content

Author: TNTP LAW

Áp dụng án lệ trong giải quyết tranh chấp dân sự

Bên cạnh các văn bản pháp luật, án lệ cũng là một trong những nguồn pháp luật quan trọng được sử dụng để giải quyết hiệu quả các tranh chấp dân sự tại Việt Nam hiện nay. Tính đến tháng 9/2024, Tòa án nhân dân Tối cao đã công bố 72 án lệ trong nhiều lĩnh vực như dân sự, hôn nhân gia đình, kinh doanh thương mại, lao động,… góp phần “gỡ rối” nhiều vấn đề pháp lý, thống nhất đường lối xét xử của các Tòa án. Vậy trường hợp nào có thể áp dụng án lệ? Trong bài viết này, TNTP sẽ gửi đến bạn đọc các kiến thức về “Áp dụng án lệ trong giải quyết tranh chấp dân sự”.

1. Án lệ là gì?

Án lệ là những lập luận, phán quyết được ghi nhận trong bản án, quyết định đã phát sinh hiệu lực pháp luật của Tòa án về một vụ việc cụ thể được Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao lựa chọn và được Chánh án Tòa án nhân dân tối cao công bố là án lệ để các Tòa án nghiên cứu, áp dụng trong xét xử. Những lập luận, phán quyết này cần phải có tính chuẩn mực, làm rõ quy định chưa rõ ràng của pháp luật, đồng thời, chỉ ra nguyên tắc, đường lối xử lý, quy phạm pháp luật cần áp dụng trong một vụ việc cụ thể nhằm đảm bảo áp dụng thống nhất pháp luật khi xét xử.

Tranh chấp dân sự xảy ra khi các bên trong giao dịch nảy sinh các bất đồng, mâu thuẫn, xung đột về quyền và lợi ích trong quan hệ dân sự (gồm quan hệ nhân thân và quan hệ tài sản). Áp dụng án lệ trong giải quyết các tranh chấp dân sự là việc Tòa án áp dụng án lệ đã được công bố để giải quyết những vụ án dân sự có tình huống pháp lý tương tự. Việc áp dụng án lệ để giải quyết tranh chấp giúp gợi mở hướng giải quyết vụ án một cách thỏa đáng, đảm bảo công bằng về quyền và lợi ích cho các bên khi tham gia tố tụng, góp phần nâng cao chất lượng giải quyết tranh chấp tại Tòa án.

2. Áp dụng án lệ trong giải quyết tranh chấp dân sự

Việc áp dụng án lệ phải tuân theo các nguyên tắc và điều kiện sau:

2.1 Nguyên tắc áp dụng án lệ

– Áp dụng án lệ có căn cứ, lý do xác đáng: Án lệ đã được chọn để áp dụng có các căn cứ xác đáng, các tình tiết, có nội dung tương tự với vụ việc mà Thẩm phán đang giải quyết.

– Nguyên tắc đảm bảo đúng, công bằng với các trường hợp cụ thể: Các Thẩm phán cần áp dụng án lệ chính xác, công bằng, đảm bảo mọi vụ án có hành vi, tình tiết như nhau phải được áp dụng các tình tiết trong án lệ như nhau.

– Nguyên tắc tuân thủ án lệ khi có tình huống pháp lý tương tự: Trong quá trình giải quyết vụ án, các Thẩm phán phải đảm bảo các vụ việc tương tự, có tình huống pháp lý giống nhau phải được giải quyết như nhau và phải ghi rõ lập luận trong bản án. Trường hợp vụ việc có tình huống pháp lý tương tự nhưng Tòa án không áp dụng án lệ thì phải nêu rõ lý do trong bản án, quyết định của Tòa án.

Như vậy, các Thẩm phán cần tuân thủ các nguyên tắc áp dụng án lệ khi giải quyết tranh chấp dân sự để các vụ việc có tình tiết pháp lý tương đồng được giải quyết giống nhau, đảm bảo công bằng cho các bên có tranh chấp tại Tòa án.

2.2 Điều kiện áp dụng án lệ

Căn cứ Khoản 3 Điều 45 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015, việc áp dụng án lệ để giải quyết tranh chấp dân sự cần đáp ứng đủ các điều kiện sau đây:

– Thứ nhất, không có điều luật áp dụng để giải quyết tranh chấp hoặc nội dung của điều luật chưa đủ cơ sở để áp dụng trên thực tế hoặc điều luật còn nhiều cách hiểu khác nhau.

– Thứ hai, không thể áp dụng tập quán, tương tự pháp luật, các nguyên tắc cơ bản của pháp luật dân sự để giải quyết tranh chấp dân sự phát sinh.

– Thứ ba, án lệ đã phát sinh hiệu lực được áp dụng để giải quyết tranh chấp. Căn cứ Khoản 1 Điều 8 Nghị quyết số 04/2019/NQ-HĐTT, án lệ được nghiên cứu, áp dụng trong xét xử sau 30 ngày kể từ ngày công bố. Như vậy, trong trường hợp án lệ được công bố hoặc ghi trong quyết định công bố án lệ chưa đủ 30 ngày thì các Thẩm phán không được lựa chọn áp dụng án lệ đó để giải quyết tranh chấp.

– Thứ tư, án lệ được áp dụng còn hiệu lực. Trong trường hợp sau khi án lệ được công bố mà phát sinh việc thay đổi của các văn bản pháp luật dẫn đến việc án lệ không còn phù hợp để áp dụng thì án lệ sẽ bị hủy bỏ và không còn hiệu lực như một nguồn pháp luật bổ sung.

– Thứ năm, án lệ chỉ được áp dụng để giải quyết đối với các vụ án dân sự có tính chất tương tự nhằm đảm bảo các vụ việc có tình huống pháp lý giống nhau phải được giải quyết giống nhau.

Trên đây là bài viết của TNTP về chủ đề “Áp dụng án lệ trong giải quyết tranh chấp dân sự”. Mong rằng bài viết này đem lại giá trị với các độc giả.

Trân trọng,

 

Trách nhiệm của nhà thầu đối với chất lượng công trình và bảo hành công trình xây dựng

Trong ngành xây dựng, chất lượng công trình và bảo hành công trình là hai yếu tố quan trọng mà mỗi nhà thầu phải đảm bảo để bảo vệ quyền lợi của chủ đầu tư, người sử dụng công trình và các bên liên quan. Những trách nhiệm này không chỉ giúp duy trì uy tín của nhà thầu mà còn có tác động lớn đến sự an toàn, hiệu quả sử dụng công trình trong suốt quá trình khai thác. Bài viết này sẽ phân tích rõ trách nhiệm của nhà thầu đối với chất lượng công trình và bảo hành công trình xây dựng.

1. Trách nhiệm của nhà thầu đối với chất lượng công trình xây dựng

Chất lượng công trình là yếu tố sống còn trong việc đảm bảo sự an toàn, bền vững và lâu dài của công trình xây dựng. Nhà thầu có trách nhiệm trực tiếp đảm bảo chất lượng công trình từ giai đoạn thiết kế, thi công cho đến khi hoàn thành công trình.

Đối với Nhà thầu thi công xây dựng theo quy định tại Khoản 2 Điều 113 Luật Xây dựng 2014 sẽ có trách nhiệm về chất lượng công trình như sau:

• Thi công đúng thiết kế và quy chuẩn kỹ thuật: Nhà thầu phải thi công xây dựng theo đúng thiết kế được duyệt, các tiêu chuẩn áp dụng, quy chuẩn kỹ thuật và đảm bảo chất lượng.

• Quản lý chất lượng và lập hồ sơ công trình: Nhà thầu cần thiết lập hệ thống quản lý chất lượng phù hợp và thực hiện việc lập hồ sơ quản lý chất lượng công trình theo quy định pháp luật.

• Chịu trách nhiệm về vật liệu và thiết bị: Nhà thầu chịu trách nhiệm về chất lượng, nguồn gốc của vật tư, nguyên vật liệu, thiết bị và các sản phẩm xây dựng do mình cung cấp và sử dụng cho công trình.

• Bồi thường thiệt hại khi vi phạm: Trường hợp nhà thầu sử dụng vật liệu sai chủng loại, thi công không đảm bảo chất lượng, nhà thầu phải bồi thường thiệt hại và chịu trách nhiệm trước hành vi vi phạm.

• Chịu trách nhiệm về công việc nhà thầu phụ: Nhà thầu chính chịu trách nhiệm về chất lượng toàn bộ công trình, kể cả phần công việc do nhà thầu phụ thực hiện. Nhà thầu phụ phải chịu trách nhiệm trước nhà thầu chính và pháp luật về phần việc của mình.

Đối với Nhà thầu thiết kế trách nhiệm đối với công trình xây dựng được quy định tại Khoản 2 Điều 114 cũng như Điều 86 Luật Xây dựng 2014. Theo đó, Nhà thầu thi công xây dựng sẽ chịu trách nhiệm về chất lượng sản phẩm thiết kế do mình thực hiện, bao gồm tính chính xác, an toàn và phù hợp với các tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật hiện hành. Nếu có nhà thầu phụ tham gia thiết kế, nhà thầu chính vẫn phải chịu trách nhiệm về chất lượng sản phẩm thiết kế của nhà thầu phụ. Đồng thời, nhà thầu phụ phải chịu trách nhiệm về kết quả thiết kế của mình trước nhà thầu chính và trước pháp luật.

2. Trách nhiệm của nhà thầu đối với bảo hành công trình xây dựng

Bảo hành công trình là trách nhiệm của nhà thầu nhằm bảo đảm rằng công trình sẽ được khắc phục nếu có bất kỳ sự cố hoặc lỗi kỹ thuật xảy ra trong thời gian bảo hành. Trách nhiệm về bảo hành của Nhà thầu được thực hiện theo đã ký kết với chủ đầu tư trong hợp đồng.

• Bảo hành đối với chất lượng công trình: Theo quy định tại Điều 29 Nghị định 06/2021/NĐ-CP, nhà thầu thi công xây dựng và nhà thầu cung ứng thiết bị có trách nhiệm bảo hành phần công việc do mình thực hiện, khắc phục hư hỏng phát sinh trong thời gian bảo hành và chịu toàn bộ chi phí liên quan. Nhà thầu có quyền từ chối bảo hành nếu hư hỏng không do lỗi của mình hoặc do nguyên nhân bất khả kháng theo hợp đồng. Nếu nhà thầu không thực hiện bảo hành khi có lỗi, chủ đầu tư được sử dụng tiền bảo hành để thuê đơn vị khác sửa chữa. Đồng thời, chủ đầu tư và người quản lý công trình phải tuân thủ quy định về vận hành và bảo trì công trình trong quá trình sử dụng..

• Thời gian bảo hành: Thời gian bảo hành đươc các bên thỏa thuận trong hợp đồng.

Đối với các công trình sử dụng vốn đầu tư công, vốn nhà nước thì thời hạn bảo hành được quy định cụ thể như sau:

– Đối với công trình cấp đặc biệt và cấp I thời hạn bảo hành không ít hơn 24 tháng.
– Đối với các công trình cấp còn lại thời hạn bảo hành không ít hơn 12 tháng.

3. Hậu quả pháp lý khi nhà thầu không thực hiện đúng trách nhiệm

Nếu nhà thầu không thực hiện đúng trách nhiệm đối với chất lượng công trình hoặc bảo hành công trình, họ sẽ phải chịu trách nhiệm pháp lý theo các quy định của pháp luật. Các hình thức xử lý có thể bao gồm:

a. Xử lý hành vi vi phạm chất lượng công trình

Xử lý hành chính: Theo Điều 17 Nghị định số 16/2022/NĐ-CP về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực xây dựng, người vi phạm có thể bị phạt từ 80.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng đối với hành vi không tuân thủ quy định về vật liệu xây dựng, đặc biệt là vật liệu xây không nung.

Xử lý hình sự: Hành vi thi công sai thiết kế và sử dụng vật liệu không đúng quy định là vi phạm pháp luật và có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự. Tùy vào mức độ, tính chất và chức vụ của người vi phạm, có thể bị xử lý theo tội “tham ô tài sản” (Điều 353 Bộ luật Hình sự 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017) với mức phạt tù lên đến 20 năm, chung thân hoặc tử hình, hoặc tội “thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng” (Điều 360 Bộ luật Hình sự 2015) với mức phạt tù lên đến 12 năm. Ngoài ra, người vi phạm còn có thể bị phạt tiền từ 30.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, cấm hành nghề từ 1 đến 5 năm, hoặc tịch thu tài sản.

b. Xử lý hành vi vi phạm bảo hành công trình

Theo Khoản 1 và Khoản 3 Điều 38 Nghị định số 16/2022/NĐ-CP, hành vi không lập báo cáo hoàn thành công tác bảo hành công trình gửi chủ đầu tư sẽ bị phạt tiền từ 20.000.000 đồng đến 30.000.000 đồng. Trong trường hợp không thực hiện đúng trách nhiệm bảo hành theo quy định, mức phạt tiền sẽ từ 40.000.000 đồng đến 60.000.000 đồng.

Nhà thầu có vai trò vô cùng quan trọng trong việc đảm bảo chất lượng công trình và thực hiện bảo hành công trình xây dựng. Trách nhiệm này không chỉ giúp bảo vệ lợi ích của chủ đầu tư và người sử dụng công trình mà còn đảm bảo an toàn, bền vững cho công trình trong suốt quá trình sử dụng. Do đó, việc tuân thủ nghiêm túc các yêu cầu về chất lượng và bảo hành công trình không chỉ là nghĩa vụ pháp lý mà còn là cam kết của nhà thầu đối với sự thành công của dự án xây dựng.

Trên đây là bài viết của luật sư TNTP về chủ đề: “Trách nhiệm của nhà thầu đối với chất lượng công trình và bảo hành công trình xây dựng”. Hy vọng rằng bài viết này đem lại giá trị với các độc giả.

Trân trọng,

Một số tranh chấp liên quan đến bảo hành công trình xây dựng và hướng giải quyết của Tòa án

Tranh chấp liên quan đến bảo hành công trình xây dựng là tranh chấp xảy ra khá phổ biến. Thực tiễn xét xử cho thấy, việc giải quyết tranh chấp này được dựa trên quy định pháp luật và quan điểm của Tòa án. Trong bài viết này, TNTP sẽ phân tích một số tranh chấp điển hình liên quan đến bảo hành công trình xây dựng và hướng giải quyết của Tòa án đối với các tranh chấp này.

1. Bảo hành công trình xây dựng là gì?

Căn cứ Khoản 17 Điều 2 Nghị định 06/2021/NĐ-CP, bảo hành công trình xây dựng là sự cam kết của nhà thầu về trách nhiệm khắc phục, sửa chữa trong một thời gian nhất định các hư hỏng, khiếm khuyết có thể xảy ra trong quá trình khai thác, sử dụng công trình xây dựng. Theo đó, Chủ đầu tư phải thỏa thuận trong hợp đồng xây dựng với các nhà thầu tham gia xây dựng công trình về các vấn đề về quyền và nghĩa vụ của các bên liên quan đến bảo hành công trình xây dựng, thời hạn bảo hành, hạn mức bảo hành;…

2. Một số tranh chấp liên quan đến bảo hành công trình và hướng giải quyết của Tòa án

Trên thực tế, các tranh chấp liên quan đến việc bảo hành công trình xây dựng phát sinh khá thường xuyên, bao gồm một số loại sau: Tranh chấp thời hạn bảo hành; Tranh chấp về nghĩa vụ bảo hành; Tranh chấp về thời điểm bắt đầu bảo hành;…

2.1. Tranh chấp trong trường hợp hợp đồng không thỏa thuận về nghĩa vụ bảo hành

Để tiến hành bảo hành công trình, điều tiên quyết là các bên cần phải ghi nhận điều khoản về bảo hành trong Hợp đồng thi công xây dựng giữa các bên.

Trong một bản án tranh chấp xây dựng giữa các cá nhân, Tòa án đã bác toàn bộ yêu cầu của nguyên đơn về việc yêu cầu bị đơn thực hiện nghĩa vụ bảo hành do không thỏa thuận trong hợp đồng. Cụ thể, trong quá trình thực hiện hợp đồng xây dựng, bị đơn đã tạm dừng công việc với lý do nguyên đơn chưa thanh toán tiền công theo thỏa thuận. Sau đó, nguyên đơn đã khởi kiện bị đơn yêu cầu bảo hành với lý do thi công không đúng thiết kế, không đảm bảo chất lượng và tính thẩm mỹ cho công trình. Trong vụ việc này, Tòa án đã từ chối yêu cầu bảo hành của nguyên đơn dựa trên các căn cứ sau:

● Căn cứ Khoản 2 Điều 46 Nghị định số 37/2015/NĐ-CP: “Bên nhận thầu có trách nhiệm bảo hành công trình, bảo hành thiết bị theo đúng các thỏa thuận trong hợp đồng. Các thỏa thuận của các bên hợp đồng về thời hạn bảo hành, mức bảo đảm bảo hành phải phù hợp với quy định của pháp luật về xây dựng”.

● Trong hợp đồng được ký kết và trong quá trình thực hiện hợp đồng, hai bên không thỏa thuận về nghĩa vụ bảo hành công trình. Đồng thời, bị đơn đã thực hiện thi công dưới sự giám sát hàng ngày theo đúng yêu cầu của nguyên đơn.

Do đó, Tòa án cho rằng bị đơn không vi phạm hợp đồng và không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn. Qua đó, có thể thấy rằng, nhà thầu chỉ có nghĩa vụ bảo hành công trình xây dựng khi các bên thỏa thuận về nội dung này. Trường hợp các bên không có thỏa thuận, nhà thầu có thể từ chối thực hiện yêu cầu bảo hành.

2.2. Tranh chấp có liên quan đến xác định thời điểm hoàn trả tiền bảo hành

Căn cứ Khoản 2 Điều 28 và điểm a Khoản 5 Điều 29 Nghị định số 06/2021/NĐ-CP, khi kết thúc thời hạn bảo hành và bên nhận thầu đã hoàn thành nghĩa vụ bảo hành, bên giao thầu phải hoàn trả tiền bảo hành cho bên nhận thầu. Tuy nhiên, Nghị định nêu trên không quy định thời điểm hoặc thời hạn cụ thể mà bên giao thầu phải hoàn trả tiền bảo hành cho bên nhận thầu.

Theo một bản án đã được giải quyết tại TAND cấp cao Thành phố Hồ Chí Minh, Tòa án đã giải quyết vụ việc theo hướng tiền bảo hành phải được hoàn trả vào ngày tiếp theo liền sau của ngày hoàn thành nghĩa vụ bảo hành. Trong vụ việc này, các bên đã hoàn thành việc nghiệm thu và bàn giao công trình, đồng thời, nguyên đơn cũng đã hoàn thành nghĩa vụ bảo hành công trình của mình. Tuy nhiên, dù nguyên đơn đã nhiều lần yêu cầu bị đơn hoàn thành nghĩa vụ thanh toán nhưng bị đơn không thực hiện. Theo đó, đối với vụ việc này, Tòa án đã đưa ra nhận định và lập luận như sau: Ngày hết hạn bảo hành là ngày 17/6/2020. Bị đơn thừa nhận bị đơn còn giữ số tiền bảo hành của nguyên đơn với lý do trong thời gian bảo hành bị đơn đã thông báo nhưng nguyên đơn không đến sửa chữa. Tuy nhiên, bị đơn không cung cấp được chứng cứ chứng minh về các thông báo của mình. Do đó, hết thời hạn bảo hành, bị đơn có nghĩa vụ thanh toán tiền bảo hành cho nguyên đơn kể từ ngày 18/6/2020 (ngày tiếp theo liền sau của ngày hết thời hạn bảo hành).

Như vậy, Tòa án đã giải quyết vụ việc trên theo hướng buộc bên giao thầu phải hoàn trả tiền bảo hành cho bên nhận thầu một cách thiện chí và kịp thời.

Trên đây là bài viết “Một số tranh chấp liên quan đến bảo hành công trình xây dựng và hướng giải quyết của Tòa án”. TNTP hy vọng bài viết có ích đối với các độc giả.

Trân trọng,

Biện pháp xử lý khi Nhà thầu bỏ dở thi công công trình xây dựng

Việc bỏ dở thi công công trình xây dựng bởi Nhà thầu là một trong những vấn đề nghiêm trọng có thể xảy ra trong quá trình thực hiện dự án. Điều này không chỉ gây ảnh hưởng đến tiến độ và chất lượng công trình mà còn dẫn đến những hệ lụy tài chính và pháp lý cho cả Chủ đầu tư và Nhà thầu. Bài viết này, TNTP sẽ phân tích nguyên nhân, hệ quả và các biện pháp xử lý khi Nhà thầu bỏ dở thi công công trình xây dựng.

1. Căn cứ pháp lý về việc Nhà thầu khi bỏ dở thi công

• Pháp luật hiện hành không đưa ra định nghĩa cụ thể về “bỏ dở thi công”. Tuy nhiên, có thể hiểu rằng “bỏ dở thi công” là tình trạng khi nhà thầu ngừng thực hiện công việc xây dựng trước khi công trình được hoàn thành mà không có căn cứ hoặc không được sự đồng ý của Chủ đầu tư.

• Khi Nhà thầu bỏ dở việc thi công cần phải xác định nguyên nhân của việc bỏ dở thi công và việc thi công bỏ dở của Nhà thầu có thuộc trường hợp được tạm ngưng hoặc chấm dứt hợp đồng theo quy định pháp luật và hợp đồng Chủ đầu tư ký kết với Nhà thầu. Bởi trong một số trường hợp việc Nhà thầu bỏ dở thi công thuộc trường hợp được tạm nhưng hoặc chấm dứt hợp đồng đáp ứng quy định pháp luật và thỏa thuận tại hợp đồng, chẳng hạn như do sự kiện bất khả kháng, vi phạm từ phía Chủ đầu tư, hoặc những lý do hợp lý khác.

• Ngược lại, nếu việc bỏ dở thi công không nằm trong các trường hợp được quy định thì có thể coi đây là hành vi vi phạm hợp đồng của Nhà thầu. Thông thường trong thỏa thuận tại nội dung hợp đồng, Nhà thầu và Chủ đầu tư sẽ xác định thời gian hoàn thành công việc và quy định về các tiêu chuẩn kỹ thuật được thỏa thuận. Do đó, trong trường hợp Nhà thầu không thực hiện đúng nghĩa vụ này, họ sẽ có thể bị coi là vi phạm hợp đồng và sẽ phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại do sự chậm trễ và những tổn thất phát sinh cho Chủ đầu tư.

• Bên cạnh đó, hành vi bỏ dở thi công còn có thể dẫn đến việc Nhà thầu bị áp dụng các biện pháp chế tài khác theo hợp đồng, như yêu cầu bồi thường thiệt hại nếu có cho Chủ đầu tư và toàn bộ chi phí phát sinh để khắc phục hậu quả và thuê Nhà thầu khác tiếp tục hoàn thành phần công việc còn lại chưa được thực hiện.

2. Biện pháp xử lý khi Nhà thầu bỏ dở thi công

Căn cứ theo quy định tại Khoản 23 Điều 131 Nghị định 24/2024/NĐ-CP, Khoản 1 Điều 145 Luật Xây dựng 2014 và các văn bản pháp luật liên quan, trong trường hợp Nhà thầu bỏ dở thi công, Chủ đầu tư có thể áp dụng nhiều biện pháp để bảo vệ quyền lợi của mình, trong đó bao gồm:

• Thông báo vi phạm, yêu cầu giải trình và khắc phục: Chủ đầu tư cần thông báo chính thức bằng văn bản cho Nhà thầu về hành vi vi phạm và yêu cầu họ thực hiện các biện pháp khắc phục trong một thời gian nhất định. Đây là bước quan trọng để tạo cơ sở pháp lý cho các biện pháp xử lý tiếp theo.

• Tạm dừng hoặc chấm dứt hợp đồng: Nếu Nhà thầu không có động thái khắc phục trong khoảng thời gian các bên đã thỏa thuận trong Hợp đồng hoặc thời gian Chủ đầu tư nêu tại thông báo, Chủ đầu tư có quyền chấm dứt hợp đồng. Việc này phải được thực hiện theo quy trình đã được quy định trong Hợp đồng hoặc theo quy định pháp luật để tránh rủi ro pháp lý từ phía Nhà thầu.

• Lựa chọn Nhà thầu thay thế: Đối với phần công việc chưa được thực hiện, Chủ đầu tư có quyền thuê một Nhà thầu khác để tiếp tục thi công. Tuy nhiên, Chủ đầu tư cần lưu ý rằng, tùy thuộc vào tính chất của từng dự án, công trình pháp luật sẽ có quy định về hình thức và phương pháp lựa chọn Nhà thầu thay thế. Dựa theo thỏa thuận tại hợp đồng, các chi phí phát sinh từ việc này, Chủ đầu tư có thể yêu cầu Nhà thầu vi phạm bồi thường.

• Sử dụng bảo lãnh thực hiện hợp đồng: Nếu hợp đồng có điều khoản bảo lãnh thực hiện, chủ đầu tư có thể yêu cầu ngân hàng phát hành bảo lãnh chi trả khoản tiền bảo lãnh để bù đắp một phần thiệt hại do việc bỏ dở thi công của nhà thầu.

• Yêu cầu bồi thường thiệt hại và phạt vi phạm hợp đồng: Chủ đầu tư có thể khởi kiện Nhà thầu để yêu cầu bồi thường các thiệt hại đã chịu do hành vi bỏ dở thi công, bao gồm chi phí thuê Nhà thầu mới và các tổn thất khác như chi phí giám sát, chi phí vật tư bị hư hại, hoặc chậm trễ trong việc đưa công trình vào sử dụng. Đồng thời thì dựa trên thỏa thuận Hợp đồng và quy định pháp luật về mức phạt vi phạm, Chủ đầu tư có thể yêu cầu Nhà thầu thanh toán khoản tiền phạt vi phạm hợp đồng.

3. Khuyến nghị đối với Chủ đầu tư

Để giảm thiểu các rủi ro pháp lý và tài chính khi Nhà thầu bỏ dở thi công, Chủ đầu tư cần cân nhắc thực hiện các bước sau:

• Đánh giá kỹ năng lực và uy tín của Nhà thầu trước khi ký kết hợp đồng: Trước khi chọn Nhà thầu, Chủ đầu tư cần tiến hành đánh giá cẩn thận về năng lực, kinh nghiệm và uy tín của Nhà thầu để đảm bảo họ có khả năng hoàn thành công việc đúng tiến độ và chất lượng yêu cầu.

• Thỏa thuận chi tiết và chặt chẽ các điều khoản hợp đồng: Hợp đồng nên được soạn thảo kỹ lưỡng với các điều khoản rõ ràng về quyền và nghĩa vụ của mỗi bên, các trường hợp tạm dừng, chấm dứt hợp đồng, chế tài khi vi phạm và quy trình giải quyết tranh chấp.

• Theo dõi tiến độ thi công và tổ chức đối thoại: Chủ đầu tư cần duy trì một hệ thống giám sát chặt chẽ nhằm theo dõi tiến độ và chất lượng công trình. Việc này giúp Chủ đầu tư kịp thời phát hiện các vấn đề, từ đó chủ động tổ chức đối thoại với Nhà thầu để tìm ra biện pháp khắc phục nhanh chóng, ngăn chặn tình trạng bỏ dở thi công.

• Tham vấn chuyên môn từ đội ngũ pháp lý: Để giải quyết hiệu quả các vấn đề phát sinh khi Nhà thầu vi phạm, Chủ đầu tư nên chủ động trao đổi với luật sư hoặc đội ngũ pháp lý của doanh nghiệp để đưa ra phương an xử lý phù hợp. Điều này đảm bảo quá trình xử lý tuân thủ đúng quy định pháp luật và thỏa thuận tại hợp đồng, giúp giảm thiểu tối đa sai sót và rủi ro pháp lý tiềm ẩn.

• Khởi kiện để bảo vệ quyền lợi: Trong trường hợp Nhà thầu không đáp ứng nghĩa vụ thi công và gây ra thiệt hại nghiêm trọng, Chủ đầu tư cần xem xét việc khởi kiện để bảo vệ quyền lợi hợp pháp của mình.

Việc Nhà thầu bỏ dở thi công là một thách thức lớn đối với Chủ đầu tư. Để bảo vệ quyền lợi và đảm bảo dự án được thực hiện đúng tiến độ và chất lượng, Chủ đầu tư cần có các biện pháp xử lý kịp thời và hợp lý. Việc xây dựng các điều khoản hợp đồng chặt chẽ, kết hợp với việc giám sát thường xuyên trong quá trình thi công sẽ giúp giảm thiểu rủi ro và bảo vệ lợi ích của các bên liên quan.

Trên đây là bài viết “Biện pháp xử lý khi Nhà thầu bỏ dở thi công công trình xây dựng” mà TNTP gửi đến Quý độc giả. TNTP hi vọng bài viết này giúp ích cho Quý độc giả.

Trân trọng,

 

Trách nhiệm trong áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời tại Tòa án

Việc áp dụng các biện pháp khẩn cấp tạm thời giúp ngăn chặn những thiệt hại có thể xảy ra. Do đó, việc áp dụng các biện pháp khẩn cấp tạm thời cần được thực hiện cẩn thận và nhanh chóng. Việc quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời đặt ra yêu cầu cao về trách nhiệm của Tòa án và các chủ thể liên quan. Trong bài viết này, TNTP sẽ phân tích trách nhiệm của người đưa ra yêu cầu và Tòa án khi áp dụng các biện pháp khẩn cấp tạm thời.

1. Trách nhiệm của người đã đưa ra yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời

Người yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời phải chịu trách nhiệm về yêu cầu của mình theo quy định tại Khoản 1 Điều 113 Bộ luật Tố tụng Dân sự 2015 (BLTTDS). Điều này nhằm đảm bảo người yêu cầu không lợi dụng quyền này để gây thiệt hại cho người khác.

Người yêu cầu phải nêu rõ và đầy đủ biện pháp khẩn cấp tạm thời mà họ muốn áp dụng trong đơn yêu cầu, đồng thời cung cấp các căn cứ chứng minh tính cần thiết và hợp pháp của việc áp dụng biện pháp đó. Nếu yêu cầu không đúng hoặc không có cơ sở, dẫn đến thiệt hại cho người bị áp dụng biện pháp hoặc bên thứ ba, người yêu cầu phải chịu trách nhiệm bồi thường.

Khi yêu cầu Tòa án áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời, người yêu cầu cần chứng minh rằng việc không áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời có thể khiến thiệt hại xảy ra khó hoặc không thể khắc phục.

2. Trách nhiệm của Tòa án khi áp dụng các biện pháp khẩn cấp tạm thời

Tòa án quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời trên cơ sở có yêu cầu của người có quyền yêu cầu hoặc tự mình áp dụng trong một số trường hợp cần thiết do pháp luật quy định. Khoản 2 Điều 113 BLTTDS quy định rằng trường hợp Tòa án áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời không đúng mà gây thiệt hại cho người bị áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời hoặc cho người thứ ba thì Tòa án phải bồi thường thiệt hại trong các trường hợp sau đây:

a) Tòa án tự mình áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời không đúng

Điều kiện để xác định trách nhiệm của Tòa án trong trường hợp này bao gồm: Tòa án đã tự mình áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời không đúng và việc không đúng đó đã làm cho người bị áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời hoặc người thứ ba bị thiệt hại.

Như vậy, điều này được hiểu là Tòa án tự mình áp dụng một hoặc nhiều biện pháp khẩn cấp tạm thời được quy định tại Điều 114 BLTTDS trong trường hợp đương sự không có yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời. Việc áp dụng của Tòa án không đáp ứng đầy đủ các điều kiện do BLTTDS quy định đối với biện pháp khẩn cấp tạm thời đó.

b) Tòa án áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời khác với biện pháp khẩn cấp tạm thời mà cá nhân, cơ quan, tổ chức yêu cầu mà không đúng

Điều kiện để xác định trách nhiệm của Tòa án trong trường hợp này bao gồm: Tòa án đã áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời khác với biện pháp khẩn cấp tạm thời mà cá nhân, cơ quan, tổ chức yêu cầu mà không đúng và việc không đúng đó đã làm cho người bị áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời hoặc người thứ ba bị thiệt hại.

Người yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời phải ghi rõ trong đơn về biện pháp khẩn cấp tạm thời cần áp dụng theo quy định tại Điều 114 BLTTDS. Trường hợp đơn yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời ghi không cụ thể, không chính xác biện pháp khẩn cấp tạm thời cần được áp dụng thì Tòa án yêu cầu sửa đổi, bổ sung đơn yêu cầu. Trong một số trường hợp, Tòa án có thể đưa ra quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời khác so với nội dung đã được nêu trong đơn yêu cầu.

c) Tòa án áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời vượt quá yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời của cá nhân, cơ quan, tổ chức mà không đúng

Điều kiện để xác định trách nhiệm của Tòa án trong trường hợp này bao gồm: Tòa án đã áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời vượt quá yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời của cá nhân, cơ quan, tổ chức mà không đúng và việc không đúng đó đã làm cho người bị áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời hoặc người thứ ba bị thiệt hại.

Tòa án áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời vượt quá yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời của cơ quan, tổ chức, cá nhân là trường hợp Tòa án áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời vượt quá về phạm vi, quy mô, số lượng biện pháp khẩn cấp tạm thời đã ghi trong đơn yêu cầu. Như vậy, Tòa án phải chịu trách nhiệm bồi thường nếu Tòa án tự ý quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời vượt quá mức độ mà người yêu cầu đề nghị.

Việc áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời tại Tòa án là một công việc quan trọng, yêu cầu tính khách quan, minh bạch và trách nhiệm rõ ràng từ Tòa án và các chủ thể liên quan. Quy định pháp luật Việt Nam đã có những bước tiến đáng kể trong việc xác định trách nhiệm bồi thường khi Tòa án áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời không đúng, đồng thời cung cấp cơ chế bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các bên.

Trên đây là bài viết “Trách nhiệm trong áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời tại Tòa án” mà TNTP gửi đến độc giả. Hy vọng bài viết này sẽ có ích với bạn.

Trân trọng.

Quy định về trách nhiệm của Các bên khi xảy ra sự cố công trình xây dựng

Sự cố công trình xây dựng không chỉ gây thiệt hại về tài sản mà còn đe dọa nghiêm trọng đến tính mạng con người. Do đó, pháp luật Việt Nam đã đặt ra các quy định chặt chẽ về trách nhiệm của các bên liên quan nhằm đảm bảo an toàn trong quá trình thi công và vận hành công trình. Qua bài viết này, TNTP sẽ gửi đến Qúy đọc giả nội dung quy định về trách nhiệm của Các bên khi xảy ra sự cố công trình xây dựng.

1. Khái niệm và phân loại sự cố công trình xây dựng

Sự cố công trình xây dựng được pháp luật định nghĩa tại khoản 34 Điều 3 Luật Xây dựng 2014 là những hư hỏng nghiêm trọng gây ảnh hưởng đến kết cấu, công năng hoặc gây nguy hiểm cho con người. Theo Nghị định 06/2021/NĐ-CP, sự cố bao gồm sập đổ toàn bộ hoặc một phần công trình, biến dạng lớn vượt giới hạn cho phép và hư hỏng các thiết bị có nguy cơ cao gây tai nạn. Ngoài ra, sự cố có thể xuất phát từ nhiều nguyên nhân khác nhau như lỗi kỹ thuật, thiên tai, hoặc do quá trình sử dụng không đúng quy trình.

Theo Điều 43 Nghị định 06/2021/NĐ-CP, sự cố công trình được phân phân loại thành ba cấp độ dựa trên mức độ thiệt hại:

• Cấp I: Sự cố gây thiệt hại về người, làm chết từ 6 người trở lên hoặc đổ một phần công trình hoặc hư hỏng có nguy cơ gây sập đổ toàn bộ công trình cấp I trở lên..

• Cấp II: Sự cố làm gây thiệt hại về nhân mạng từ 1 đến 5 người hoặc sập đổ toàn bộ hoặc một phần công trình cấp II, cấp III hoặc các hư hỏng có nguy cơ làm sập đổ công trình.

• Cấp III: sự cố nhỏ hơn, không thuộc phạm vi cấp I và cấp II, nhưng vẫn tiềm ẩn nguy cơ ảnh hưởng đến an toàn và vận hành công trình.

Việc phân loại này giúp cơ quan chức năng dễ dàng xác định mức độ trách nhiệm và biện pháp xử lý phù hợp đối với từng sự cố cụ thể.

2. Trách nhiệm của các bên liên quan khi xảy ra sự cố công trình xây dựng

• Trách nhiệm của chủ đầu tư khi xảy ra sự cố công trình xây dựng: Chủ đầu tư đóng vai trò quan trọng trong việc quản lý và giám sát toàn bộ quá trình xây dựng. Theo quy định, chủ đầu tư phải đảm bảo lựa chọn nhà thầu có đủ năng lực và giám sát chặt chẽ việc thi công. Trong trường hợp xảy ra sự cố, chủ đầu tư có trách nhiệm báo cáo cơ quan quản lý nhà nước; Hợp tác điều tra bao gồm cung cấp đầy đủ tài liệu, thông tin liên quan đến dự án để hỗ trợ điều tra nguyên nhân sự cố,…; Phối hợp với các bên để khắc phục hậu quả và chịu trách nhiệm nếu sự cố xảy ra do lỗi của chủ đầu tư (như thiếu sót trong thiết kế, giám sát).

Cụ thể: Ngay sau khi xảy ra sự cố, bằng biện pháp nhanh nhất chủ đầu tư phải thông báo về sự cố bao gồm thông tin về tên và vị trí xây dựng công trình, sơ bộ về sự cố và thiệt hại (nếu có) cho Ủy ban nhân dân cấp xã nơi xảy ra sự cố và cơ quan cấp trên của mình (nếu có). Ngay sau khi nhận được thông tin, Ủy ban nhân dân cấp xã phải báo cáo cho Ủy ban nhân dân cấp huyện và Ủy ban nhân dân cấp tỉnh về sự cố.

• Trách nhiệm của nhà thầu thi công khi xảy ra sự cố công trình xây dựng: Nhà thầu thi công chịu trách nhiệm trực tiếp về chất lượng công trình và an toàn lao động trong suốt quá trình thi công. Điều này bao gồm việc tuân thủ các tiêu chuẩn kỹ thuật, đảm bảo chất lượng vật liệu và thực hiện đầy đủ các biện pháp an toàn. Nếu sự cố xảy ra do lỗi kỹ thuật hoặc thi công không đúng thiết kế, nhà thầu sẽ phải chịu hoàn toàn trách nhiệm về khắc phục hậu quả cũng như bồi thường thiệt hại; Cung cấp nhân lực, vật lực cần thiết để hỗ trợ khắc phục hậu quả.

• Trách nhiệm của đơn vị tư vấn thiết kế khi xảy ra sự cố công trình xây dựng: Đơn vị tư vấn thiết kế chịu trách nhiệm về chất lượng và an toàn của hồ sơ thiết kế. Nếu sự cố xảy ra do lỗi thiết kế hoặc tính toán sai, đơn vị tư vấn thiết kế sẽ phải chịu trách nhiệm liên đới. Pháp luật yêu cầu đơn vị tư vấn phải kiểm tra và rà soát kỹ hồ sơ thiết kế trước khi đưa vào thi công nhằm hạn chế tối đa rủi ro.

• Trách nhiệm của đơn vị giám sát thi công khi xảy ra sự cố công trình xây dựng: Đơn vị giám sát có vai trò kiểm tra và giám sát toàn bộ quá trình thi công để đảm bảo tuân thủ đúng thiết kế và các tiêu chuẩn an toàn. Nếu đơn vị này không phát hiện hoặc báo cáo kịp thời những sai phạm trong quá trình thi công dẫn đến sự cố, họ sẽ phải chịu trách nhiệm liên quan, bao gồm cả trách nhiệm dân sự và hình sự tùy vào mức độ vi phạm.

3. Quy trình xử lý khi xảy ra sự cố công trình xây dựng

Khi xảy ra sự cố công trình xây dựng, chủ đầu tư và nhà thầu thi công công trình có trách nhiệm thực hiện ngay các biện pháp kịp thời để tìm kiếm cứu hộ, bảo đảm an toàn cho người và tài sản, đồng thời ngăn ngừa các nguy hiểm có thể tiếp tục xảy ra. Ngoài ra, họ còn phải tổ chức bảo vệ hiện trường sự cố và báo cáo tình hình lên các cơ quan chức năng để phối hợp xử lý. Ủy ban nhân dân cấp tỉnh sẽ trủ trì giải quyết và thực hiện các công việc sau:

• Tạm dừng thi công: Tùy thuộc vào mức độ và phạm vi ảnh hưởng của sự cố, cơ quan có thẩm quyền hoặc chủ đầu tư có thể quyết định dừng hoặc tạm dừng thi công hay khai thác sử dụng công trình.

• Xem xét phá dỡ, thu dọn hiện trường: Việc phá dỡ và thu dọn hiện trường phải đảm bảo an toàn cho người, tài sản và các công trình lân cận. Trước khi tiến hành, cần ghi lại hiện trường bằng ảnh, video, thu thập chứng cứ và lập hồ sơ chi tiết.

• Thông báo kết quả giám định: Sau khi xác định nguyên nhân sự cố, kết quả giám định cần được thông báo cho chủ đầu tư và các bên liên quan để có biện pháp khắc phục phù hợp.

• Xử lý trách nhiệm pháp lý: Các bên liên quan sẽ bị xem xét trách nhiệm và xử lý theo quy định pháp luật, bao gồm các hình thức xử phạt hoặc yêu cầu bồi thường thiệt hại.

Ủy ban nhân dân cấp tỉnh có thể giao cho cấp huyện giải quyết các sự cố cấp II và cấp III để kịp thời xử lý và đảm bảo an toàn địa phương.

4. Hình thức xử phạt và bồi thường thiệt hại khi xảy ra sự cố công trình xây dựng

Pháp luật hiện hành quy định các hình thức xử phạt nghiêm khắc đối với các cá nhân và tổ chức vi phạm. Tùy vào mức độ vi phạm, các hình thức xử phạt bao gồm:

• Xử phạt hành chính: Các vi phạm về an toàn lao động và chất lượng công trình có thể bị xử phạt hành chính với mức phạt lên đến hàng trăm triệu đồng, theo Nghị định 16/2022/NĐ-CP.

• Truy cứu trách nhiệm hình sự: Người nào vi phạm quy định về xây dựng gây hậu quả nghiêm trọng đến tính mạng con người hoặc thiệt hại lớn về tài sản, các cá nhân liên quan có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo Điều 298 Bộ luật Hình sự 2015 (sửa đổi, bổ sung 2017).

• Bồi thường thiệt hại: Các bên gây ra sự cố phải bồi thường toàn bộ thiệt hại về người và tài sản, bao gồm chi phí sửa chữa, điều trị y tế và các thiệt hại khác phát sinh.

5. Giải pháp phòng ngừa sự cố trong xây dựng

Để hạn chế tối đa nguy cơ xảy ra sự cố, các bên liên quan cần thực hiện nghiêm túc các giải pháp phòng ngừa. Trước hết, việc lựa chọn nhà thầu có năng lực và kiểm soát chất lượng vật liệu đóng vai trò quan trọng. Bên cạnh đó, cần tăng cường đào tạo về an toàn lao động cho công nhân và cán bộ kỹ thuật. Ngoài ra, việc kiểm tra, bảo trì định kỳ cũng là yếu tố không thể thiếu nhằm phát hiện sớm và xử lý kịp thời các nguy cơ tiềm ẩn.

Việc tuân thủ đầy đủ các quy định pháp luật không chỉ giúp đảm bảo an toàn cho công trình mà còn bảo vệ quyền lợi của các bên liên quan, đồng thời góp phần xây dựng ngành xây dựng phát triển bền vững và an toàn hơn.

Trên đây là bài viết của luật sư TNTP về chủ đề: “Quy định về trách nhiệm Các bên khi xảy ra sự cố công trình xây dựng”. Hy vọng rằng bài viết này đem lại giá trị với các độc giả.

Trân trọng,

Giải quyết tranh chấp hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế bằng thương lượng

Trong giải quyết tranh chấp hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế, phương thức thương lượng được coi là một phương thức ưu việt, mang lại nhiều lợi ích vượt trội cho các bên tham gia. Với vai trò là một phương thức giải quyết tranh chấp dựa trên nguyên tắc tự nguyện và thiện chí, thương lượng giúp các bên có thể tháo gỡ mâu thuẫn một cách linh hoạt mà không cần phải chịu áp lực từ các quy trình pháp lý phức tạp và tốn kém. Trong bài viết này, TNTP sẽ phân tích một số nội dung về giải quyết tranh chấp hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế bằng thương lượng.

1. Khái niệm

Thương lượng trong việc giải quyết tranh chấp hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế được hiểu là một phương thức giải quyết tranh chấp ngoài tòa án, trong đó các bên tranh chấp tự mình thực hiện các thỏa thuận để xử lý mâu thuẫn. Thông qua sự tự nguyện và thiện chí, các bên tìm cách giải quyết các bất đồng hoặc xung đột phát sinh liên quan đến quyền và nghĩa vụ trong quá trình thực hiện hợp đồng thương mại, với mục tiêu hướng tới bảo vệ lợi ích chung và duy trì mối quan hệ hợp tác giữa hai bên.

2. Đặc điểm

(i) Thương lượng là phương thức giải quyết tranh chấp thương mại ngoài tòa án

Thương lượng được thực hiện mà không có sự tham gia của bên thứ ba như trọng tài hoặc tòa án. Trong lĩnh vực thương mại, các bên tranh chấp trực tiếp đàm phán với nhau để tìm kiếm giải pháp, thay vì dựa vào sự hỗ trợ của một bên trung gian. Vai trò của bên thứ ba trong quá trình này thường không cần thiết, bởi trọng tâm của thương lượng nằm ở sự trao đổi trực tiếp giữa các bên.

(ii) Thương lượng là quá trình đàm phán để các bên thống nhất giải quyết tranh chấp

Những tranh chấp thương mại quốc tế có thể phát sinh trong quá trình ký kết hoặc thực hiện hợp đồng. Hoạt động thương lượng có thể được thực hiện trực tiếp bởi các bên liên quan hoặc thông qua đại diện là những chuyên gia có đủ năng lực và kinh nghiệm, được ủy quyền để tiến hành đàm phán thay mặt cho các bên.

(iii) Thiện chí là yếu tố quyết định

Một trong những yếu tố cốt lõi để thương lượng đạt hiệu quả là thiện chí từ các bên. Các bên cần hành động với sự trung thực, tinh thần hợp tác và đôi khi sẵn sàng nhượng bộ một số lợi ích nhất định. Điều này giúp quá trình giải quyết tranh chấp trở nên khách quan hơn và mang lại kết quả tối ưu.

(iv) Hiệu quả

Phương thức thương lượng tạo điều kiện để các bên liên quan, trực tiếp hoặc thông qua đại diện, gặp gỡ và thảo luận nhằm giải quyết các tranh chấp phát sinh trong hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế. Đây là cơ hội để các bên làm rõ ý định của mình một cách minh bạch, đồng thời thấu hiểu quan điểm và nguyện vọng của đối phương. Từ đó, họ có thể tìm ra giải pháp tốt nhất, phù hợp với lợi ích của hai bên.

Thương lượng hiệu quả trong các tranh chấp có tính chất đơn giản, giá trị thấp, hoặc khi các bên không muốn có sự can thiệp từ bên thứ ba. Tuy nhiên, trong hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế, các bên là các chủ thể đến từ các quốc gia khác nhau, do sự khác biệt văn hóa, pháp luật hoặc quan điểm giữa các quốc gia quá lớn, việc gặp mặt trực tiếp để thương lượng có thể gặp nhiều khó khăn, làm tốn kém thời gian và chi phí. Vì vậy, hiệu quả của phương thức này phụ thuộc rất lớn vào bản chất tranh chấp, thái độ và mục đích của các bên tham gia.

3. Cách thức thực hiện

Trong các tranh chấp hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế, các bên thường ưu tiên lựa chọn phương thức thương lượng gián tiếp thông qua việc trao đổi qua văn bản hoặc trao đổi qua các cuộc họp trực tuyến bởi vì việc gặp gỡ trực tiếp khó khăn do khoảng cách về địa lý.

Việc trao đổi qua văn bản thường được thực hiện thông qua các công cụ hiện đại như thư điện tử hoặc fax. Theo đó, bên khiếu nại sẽ gửi văn bản nêu rõ hành vi vi phạm kèm theo các bằng chứng cụ thể nhằm chứng minh yêu cầu của mình. Trong văn bản này, bên khiếu nại cũng có thể đưa ra những yêu cầu chi tiết và đề xuất phương thức giải quyết mong muốn. Sau khi tiếp nhận, bên bị vi phạm sẽ phản hồi bằng một văn bản riêng, trong đó trình bày quan điểm và ý kiến của mình về tranh chấp đang xảy ra.

Trong bối cảnh toàn cầu hóa với sự giao thoa của nhiều hệ thống pháp luật, văn hóa kinh doanh và tập quán thương mại khác nhau, việc áp dụng thương lượng không chỉ góp phần giảm thiểu chi phí, bảo vệ quyền lợi chính đáng của các bên mà còn duy trì và củng cố mối quan hệ hợp tác lâu dài, vốn là yếu tố cốt lõi trong hoạt động thương mại quốc tế. Đây chính là lý do mà thương lượng luôn được khuyến khích trước khi các bên cân nhắc đến các phương thức giải quyết tranh chấp khác như trọng tài hoặc tòa án.

Trên đây là bài viết “Giải quyết tranh chấp hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế bằng thương lượng” mà TNTP gửi đến độc giả. Hy vọng bài viết này sẽ có ích với bạn.

Trân trọng.

 

Tranh chấp do bên bán vi phạm nghĩa vụ hợp đồng mua bán hàng hóa

Đặc trưng của hợp đồng là sự thỏa thuận nhằm xác lập các quyền, nghĩa vụ cho các bên. Tương tự, đối với hợp đồng mua bán hàng hóa, các bên đều có quyền và nghĩa vụ của riêng mình. Trong đó, bên bán sẽ có các nghĩa vụ liên quan đến giao hàng và bên mua có các nghĩa vụ liên quan đến việc thanh toán. Vì vậy, các tranh chấp nảy sinh do lỗi của bên bán vi phạm nghĩa vụ hợp đồng mua bán hàng hóa chủ yếu liên quan đến các vấn đề về giao hàng, chất lượng hàng hóa,… Trong bài viết này, TNTP sẽ cung cấp cho bạn đọc kiến thức pháp lý về các tranh chấp phát sinh do bên bán vi phạm nghĩa vụ trong hợp đồng mua bán hàng hóa.

1. Tranh chấp liên quan đến hợp đồng mua bán hàng hóa

Mua bán hàng hóa là một hoạt động thương mại có đặc trưng là bên bán có nghĩa vụ giao hàng, chuyển quyền sở hữu hàng hóa cho bên mua và nhận thanh toán; trong khi đó, bên mua có nghĩa vụ thanh toán, nhận hàng và quyền sở hữu từ bên bán theo thỏa thuận.

Trong quan hệ mua bán hàng hóa, do bên bán là bên chịu trách nhiệm sản xuất, cung cấp, giao hàng nên các tranh chấp liên quan đến nghĩa vụ của bên bán thường xuất phát từ các vi phạm như không giao hàng, giao hàng chậm, giao hàng không đúng số lượng, chất lượng, chủng loại,…

2. Tranh chấp do bên bán giao hàng không đúng thời hạn giao hàng

Căn cứ Điều 37 Luật Thương mại 2005, bên bán phải giao hàng vào đúng thời điểm giao hàng đã thỏa thuận trong hợp đồng. Trường hợp các bên chỉ thỏa thuận về thời hạn giao hàng mà không xác định cụ thể thời điểm giao hàng thì bên bán có quyền giao hàng vào bất kỳ thời điểm nào trong thời hạn đó, với điều kiện là phải thông báo trước cho bên mua. Trường hợp không có thỏa thuận về thời hạn giao hàng thì bên bán phải giao hàng trong một thời hạn hợp lý sau khi ký kết hợp đồng.

Thông thường, các bên sẽ thỏa thuận thời điểm giao hàng trong hợp đồng mua bán hàng hóa hoặc trong các đơn đặt hàng. Bên bán phải giao hàng vào đúng thời điểm mà các bên đã thỏa thuận. Trường hợp bên bán không thể giao hàng vào đúng thời hạn đã thỏa thuận, bên bán cần thông báo trước với bên mua và đề nghị thời hạn giao hàng mới. Trong trường hợp bên mua không đồng ý thay đổi thời hạn giao hàng mà bên bán không thể giao hàng đúng thời hạn theo thỏa thuận của các bên được hiểu là bên bán đã vi phạm nghĩa vụ về thời hạn giao hàng.

Việc giao hàng đúng thời hạn của bên bán là vô cùng quan trọng bởi nếu bên bán vi phạm nghĩa vụ này sẽ làm chậm tiến độ sản xuất, kinh doanh của bên mua, dẫn đến việc bên mua có thể vi phạm hợp đồng với bên thứ ba. Trong trường hợp này, bên bán sẽ phải chịu các chế tài do vi phạm nghĩa vụ được quy định trong hợp đồng.

3. Tranh chấp do bên bán giao hàng không đúng chủng loại, số lượng hàng hóa hoặc không giao hàng

Căn cứ Điều 34 Luật Thương mại 2005, bên bán phải giao hàng cho bên mua theo thỏa thuận của hai bên trong hợp đồng về số lượng, chất lượng, phương thức đóng gói, bảo quản hàng hóa và các quy định khác. Trong trường hợp các bên không thỏa thuận thì các trường hợp sau được coi là bên bán không giao hàng, không giao hàng đúng chủng loại, số lượng:

– Không phù hợp với mục đích sử dụng thông thường của các hàng hóa cùng chủng loại;

– Không phù hợp với bất kỳ mục đích cụ thể nào mà bên mua đã cho bên bán biết hoặc bên bán phải biết vào thời điểm giao kết hợp đồng;

– Không bảo đảm chất lượng như chất lượng của mẫu hàng hóa mà bên bán đã giao cho bên mua;

– Không được bảo quản, đóng gói theo cách thức thông thường đối với loại hàng hóa đó hoặc không theo cách thức thích hợp để bảo quản hàng hóa trong trường hợp không có cách thức bảo quản thông thường;

– Hàng hóa không được giao hoặc được giao nhưng số lượng hàng hóa không đúng như thỏa thuận.

Việc giao hàng đúng chủng loại, số lượng, chất lượng hàng hóa là nghĩa vụ cơ bản trong hợp đồng mua bán hàng hóa do việc giao sai chủng loại, chất lượng, số lượng có thể gây thiệt hại cho bên còn lại đến mức làm cho bên kia không đạt được mục đích của việc giao kết hợp đồng. Khi mục đích giao kết không đạt được, ngoài việc bên bán phải bồi thường, phạt vi phạm (nếu có thỏa thuận) thì bên mua có quyền đình chỉ thực hiện hợp đồng được ký kết giữa các bên.

Tuy nhiên, theo Khoản 1 Điều 40 Luật Thương mại 2005, trường hợp bên mua đã biết hoặc buộc phải biết về các khiếm khuyết đó của hàng hóa vào thời điểm giao kết hợp đồng, bên bán không bị coi là giao hàng hóa không phù hợp về chất lượng. Ngoài ra, theo Khoản 4 Điều 44 Luật Thương mại 2005, bên bán cũng không phải chịu trách nhiệm đối với các khiếm khuyết của hàng hóa mà bên mua đã biết hoặc phải biết nhưng không thông báo cho bên bán trong thời hạn hợp lý sau khi kiểm tra hàng hóa.

4. Tranh chấp do bên bán vi phạm các điều khoản khác trong hợp đồng mua bán hàng hóa

Ngoài một số tranh chấp phổ biến được đề cập ở trên, các tranh chấp do bên bán vi phạm nghĩa vụ còn có thể bắt nguồn từ một số nguyên nhân sau:

– Tranh chấp do bên bán vi phạm nghĩa vụ giao chứng từ liên quan đến hàng hóa: Căn cứ Điều 42 Luật thương mại 2005, trường hợp các bên có thỏa thuận về việc giao chứng từ thì bên bán có nghĩa vụ giao chứng từ liên quan đến hàng hóa trong thời hạn, tại địa điểm và bằng phương thức đã thỏa thuận. Như vậy, trong trường hợp bên bán không thực hiện đúng nghĩa vụ giao các chứng từ hàng hóa cho bên mua theo như thỏa thuận và không khắc phục được vấn đề này thì tranh chấp do bên bán vi phạm nghĩa vụ cũng có thể phát sinh.

– Tranh chấp do bên bán vi phạm nghĩa vụ đảm bảo quyền sở hữu đối với hàng hóa: Căn cứ Điều 45 Luật thương mại 2005, bên bán có nghĩa vụ phải đảm bảo quyền sở hữu của bên mua đối với hàng hóa không bị tranh chấp bởi bên thứ ba cũng như hàng hóa và việc vận chuyển hàng hóa đó phải hợp pháp. Theo đó, bên bán phải chịu trách nhiệm trong trường hợp phát sinh các tranh chấp liên quan đến quyền sở hữu hay tính hợp pháp của hàng hóa.

– Tranh chấp do bên bán vi phạm quyền sở hữu trí tuệ: Căn cứ Điều 46 Luật thương mại 2005, bên bán không được vi phạm quyền sở hữu trí tuệ và phải chịu trách nhiệm nếu phát sinh tranh chấp liên quan đến quyền sở hữu trí tuệ đối với hàng hóa đã bán. Theo đó, đối với một số loại hàng hóa đặc thù đã được cấp các quyền sở hữu trí tuệ và thuộc quyền sở hữu của bên mua hoặc một bên thứ ba bất kỳ mà bên bán sử dụng khi chưa được cho phép sẽ bị coi là xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ.

– Tranh chấp do bên bán vi phạm điều khoản liên quan đến bảo mật thông tin: Tranh chấp có thể phát sinh do bên bán vô tình hoặc cố ý sử dụng, phát tán các thông tin của bên mua khi chưa được sự cho phép của bên mua hoặc làm lộ bí mật kinh doanh của bên mua,…

– Tranh chấp do bên bán vi phạm các điều khoản khác theo thỏa thuận của các bên.

Trong trường hợp bên bán vi phạm các nghĩa vụ trong hợp đồng mua bán hàng hóa trên, bên bán có thể sẽ phải chịu một hoặc đồng thời nhiều các chế tài như: buộc thực hiện đúng hợp đồng, bồi thường thiệt hại, phạt vi phạm, tạm đình chỉ hợp đồng, đình chỉ hợp đồng, chấm dứt hợp đồng,…. tùy vào thỏa thuận của các bên và quy định pháp luật.

Trên đây là những nội dung và chia sẻ pháp lý của TNTP về “Tranh chấp do bên bán vi phạm nghĩa vụ hợp đồng mua bán hàng hóa”. Chúng tôi hy vọng bài viết này có ích với bạn.

Trân trọng.

 

Tranh chấp về chủ thể ký kết hợp đồng mua bán hàng hóa

Đối với hợp đồng nói chung và hợp đồng mua bán hàng hóa nói riêng, các bên tham gia hợp đồng phải đáp ứng các điều kiện về năng lực pháp luật, năng lực hành vi theo quy định của pháp luật. Tranh chấp hợp đồng mua bán hàng hóa phát sinh do bên ký kết không đáp ứng các điều kiện chủ thể trong hợp đồng. Trong bài viết này, TNTP sẽ phân tích một số tranh chấp phổ biến liên quan đến chủ thể ký kết hợp đồng mua bán hàng hóa.

1. Tranh chấp về năng lực pháp luật và năng lực hành vi

Theo quy định tại Bộ luật Dân sự 2015 và Luật Thương mại 2005, các bên tham gia hợp đồng phải có năng lực pháp luật và năng lực hành vi phù hợp để xác lập và thực hiện giao dịch. Tuy nhiên, trong một số trường hợp, do các bên ký kết hợp đồng không có đủ năng lực pháp luật, năng lực hành vi nên dẫn đến tranh chấp hợp đồng giữa các bên. Một số tranh chấp hợp đồng có thể kể đến do:

• Người ký kết hợp đồng không đủ năng lực hành vi (ví dụ: chưa thành niên, mất hoặc bị hạn chế năng lực hành vi dân sự);

• Người ký hợp đồng không có quyền đại diện hoặc vượt quá phạm vi đại diện;

Tranh chấp này thường phát sinh khi người ký hợp đồng không phải là người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp hoặc không được ủy quyền một cách hợp pháp hoặc ký kết vượt quá phạm vi được đại diện. Trong các trường hợp này, hậu quả pháp lý của hợp đồng sẽ được giải quyết theo Điều 142 và Điều 143 BLDS 2015.

• Tổ chức ký kết hợp đồng không đáp ứng đủ điều kiện pháp lý để hoạt động (ví dụ: chưa đăng ký kinh doanh, hoặc kinh doanh không đúng ngành nghề hoặc không đủ điều kiện kinh doanh ngành nghề có điều kiện).

Một số ngành nghề kinh doanh hàng hóa thuộc nhóm ngành nghề có điều kiện theo quy định của pháp luật, ví dụ như kinh doanh xăng dầu, rượu bia, thuốc lá, dược phẩm, hoặc trang thiết bị y tế. Nếu bên bán không đủ điều kiện kinh doanh, hợp đồng mua bán hàng hóa có thể bị tuyên vô hiệu theo quy định tại Bộ luật Dân sự 2015. Ví dụ, một doanh nghiệp không có giấy phép kinh doanh trang thiết bị y tế nhưng vẫn ký hợp đồng để bán trang thiết bị y tế với bên khác thì hợp đồng được ký kết có thể bị tuyên vô hiệu.

2. Tranh chấp do bên bán không có quyền bán hàng hóa

Một dạng tranh chấp khác liên quan đến chủ thể hợp đồng mua bán hàng hóa là việc bên bán không có quyền bán hàng hóa. Theo quy định tại Bộ luật Dân sự 2015, bên bán phải có quyền sở hữu hàng hóa hoặc có quyền bán hàng hóa. Trường hợp bên bán không phải là chủ sở hữu hoặc không có sự ủy quyền hợp pháp từ chủ sở hữu thì hợp đồng mua bán hàng hóa được ký kết có thể bị tuyên vô hiệu. Một ví dụ điển hình trong thực tế là công ty bán hàng hóa đang bị thế chấp tại ngân hàng mà không có sự đồng ý của ngân hàng.

3. Tranh chấp do chi nhánh của pháp nhân không được ủy quyền để ký hợp đồng mua bán hàng hóa

Theo quy định tại Điều 84 BLDS 2015, chi nhánh là đơn vị phụ thuộc của pháp nhân, do vậy không có tư cách pháp nhân. Chi nhánh chỉ được ký kết hợp đồng mua bán hàng hóa khi có sự ủy quyền từ pháp nhân. Tranh chấp hợp đồng sẽ phát sinh khi chi nhánh tự ý ký kết hợp đồng mà không có sự ủy quyền hợp pháp, dẫn đến việc đối tác yêu cầu tuyên vô hiệu hợp đồng hoặc yêu cầu bồi thường thiệt hại. Ví dụ, một chi nhánh của công ty A ký hợp đồng bán một lô hàng lớn mà không được công ty A ủy quyền. Bên mua có thể yêu cầu tòa án tuyên hợp đồng vô hiệu do vi phạm quy định về chủ thể ký kết.

4. Tranh chấp do vi phạm quy định về sự chấp thuận của đại hội đồng cổ đông, hội đồng quản trị hoặc hội đồng thành viên hoặc thành viên hợp danh

Trong mô hình tổ chức và hoạt động của công ty hợp danh, việc quyết định đối với hợp đồng có giá trị lớn thuộc về thành viên hợp danh. Tương tự, trong các công ty cổ phần hoặc công ty trách nhiệm hữu hạn, việc ký kết hợp đồng có giá trị lớn hoặc có tính chất quan trọng thường phải được sự chấp thuận của đại hội đồng cổ đông, hội đồng quản trị hoặc hội đồng thành viên, tùy theo quy định của pháp luật và điều lệ công ty. Như vậy, trường hợp người đại diện ký hợp đồng mà không có sự chấp thuận theo quy định nêu trên thì hợp đồng được ký kết có thể bị tuyên vô hiệu do người ký hợp đồng không có quyền đại diện hoặc vượt quá phạm vi đại diện.

Các tranh chấp hợp đồng liên quan đến chủ thể ký kết hợp đồng mua bán hàng hóa xuất phát từ nhiều nguyên nhân khác nhau, bao gồm sự thiếu hiểu biết về pháp luật, hành vi cố ý vi phạm hoặc sai sót trong quản lý nội bộ doanh nghiệp. Để hạn chế rủi ro, các bên cần tuân thủ nghiêm ngặt các quy định pháp luật, kiểm tra kỹ lưỡng thẩm quyền của đối tác trước khi ký kết hợp đồng.

Trên đây là những nội dung và chia sẻ pháp lý của TNTP về “Tranh chấp về chủ thể ký kết hợp đồng mua bán hàng hóa”. Chúng tôi hy vọng bài viết này có ích với bạn.

Trân trọng.

 

Pháp luật áp dụng giải quyết tranh chấp hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế tại Tòa án Việt Nam

Hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế (“HĐMBHHQT”) là thỏa thuận mua bán hàng hóa có yếu tố nước ngoài mà trong đó một bên đóng vai trò là bên bán, một bên đóng vai trò là bên mua. Trong đó, bên bán có các nghĩa vụ liên quan đến việc giao hàng, chuyển quyền sở hữu hàng hóa cho bên mua và nhận thanh toán; ngược lại, bên mua có nghĩa vụ thanh toán cho bên bán, nhận hàng và quyền sở hữu hàng hóa theo thỏa thuận. Bản chất của HĐMBHHQT vẫn là một quan hệ dân sự, nhưng quan hệ này đặc biệt hơn do có sự xuất hiện của các yếu tố nước ngoài. Chính vì vậy, pháp luật được áp dụng để điều chỉnh và áp dụng khi giải quyết các tranh chấp liên quan đến HĐMBHHQT cũng rất đa dạng và phức tạp.

1. Pháp luật tố tụng được áp dụng để giải quyết tranh chấp Hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế tại Tòa án Việt Nam

Căn cứ Khoản 3 Điều 2 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015, trình tự thủ tục tố tụng để giải quyết các tranh chấp dân sự có yếu tố nước ngoài cần tuân theo theo các quy định tại Bộ luật Tố tụng dân sự 2015. Trường hợp trong điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên có quy định khác thì ưu tiên áp dụng quy định của điều ước quốc tế đó.

Như vậy, với bản chất là một quan hệ pháp luật dân sự có yếu tố nước ngoài, pháp luật tố tụng được áp dụng để giải quyết tranh chấp liên quan đến HĐMBHHQT tại Tòa án Việt Nam có thể được áp dụng theo pháp luật tố tụng Việt Nam hoặc theo pháp luật tố tụng nước ngoài được quy định trong Điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên. Cụ thể:

– Trong trường hợp các Điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên có quy định áp dụng pháp luật tố tụng nước ngoài để giải quyết thì Tòa án Việt Nam sẽ áp dụng pháp luật tố tụng nước ngoài để thực hiện tố tụng tại Việt Nam. Tuy nhiên, việc áp dụng pháp luật nước ngoài phải đảm bảo không được trái với các nguyên tắc của pháp luật Việt Nam. Ví dụ, Khoản 1 Điều 7 Hiệp định tương trợ tư pháp và pháp lý về các vấn đề dân sự và hình sự giữa Việt Nam và Liên bang Nga năm 2012 có quy định: “Khi thực hiện yêu cầu tương trợ tư pháp, cơ quan được yêu cầu áp dụng pháp luật nước mình. Theo đề nghị của cơ quan yêu cầu, cơ quan được yêu cầu có thể áp dụng các quy phạm tố tụng của Bên ký kết yêu cầu, nếu các quy phạm đó không trái với pháp luật của bên ký kết được yêu cầu”.

– Ngoài trường hợp áp dụng pháp luật tố tụng nước ngoài theo Điều ước quốc tế nêu trên, các trường hợp giải quyết tranh chấp liên quan đến HĐMBHHQT khác khi đã được xác định là có thẩm quyền giải quyết tại Tòa án Việt Nam thì sẽ được giải quyết theo thủ tục tố tụng của pháp luật Việt Nam.

2. Áp dụng pháp luật nội dung để giải quyết tranh chấp Hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế tại Tòa án Việt Nam

Khi giải quyết các tranh chấp liên quan đến HĐMBHHQT, Tòa án cần xem xét đến các vấn đề về năng lực chủ thể ký kết hợp đồng và các vấn đề liên quan đến nội dung hợp đồng.

2.1. Áp dụng pháp luật để xác định năng lực chủ thể ký kết Hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế

Căn cứ Điều 673 và Điều 676 Bộ luật Dân sự 2015, năng lực dân sự của chủ thể sẽ được xác định như sau:

– Đối với trường hợp chủ thể là cá nhân: Năng lực pháp luật dân sự của cá nhân được xác định theo pháp luật của nước mà người đó có quốc tịch. Người nước ngoài ở Việt Nam, có năng lực pháp luật dân sự như công dân Việt Nam, trừ trường hợp pháp luật Việt Nam có quy định khác.

– Đối với trường hợp chủ thể là pháp nhân: Năng lực pháp luật dân sự của pháp nhân, trách nhiệm của pháp nhân và thành viên của pháp nhân đối với các nghĩa vụ của pháp nhân được xác định theo pháp luật của nước mà pháp nhân có quốc tịch. Quốc tịch của pháp nhân căn cứ theo pháp luật của nước nơi pháp nhân thành lập. Trường hợp pháp nhân nước ngoài tiến hành xác lập, thực hiện giao dịch dân sự tại Việt Nam thì năng lực pháp luật dân sự của pháp nhân nước ngoài đó được xác định theo pháp luật Việt Nam.

2.2. Áp dụng pháp luật để giải quyết các vấn đề liên quan đến nội dung Hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế

Căn cứ Điều 683 Bộ luật Dân sự 2015, các bên có thể lựa chọn pháp luật áp dụng cho HĐMBHHQT của mình. Trường hợp các bên không có thỏa thuận hoặc không thỏa thuận được thì áp dụng pháp luật của nước có mối liên hệ gắn bó nhất với HĐMBHHQT.

– Áp dụng pháp luật do các bên lựa chọn: Nguyên tắc chung để xác định luật điều chỉnh nội dung vụ việc tranh chấp là ưu tiên áp dụng pháp luật do các bên thỏa thuận. Vì vậy, Khoản 1 Điều 683 Bộ luật Dân sự 2015 đã được quy định theo hướng cho phép các bên thỏa thuận, lựa chọn pháp luật mà các bên có mong muốn được áp dụng để giải quyết trước. Ngoài ra, các bên cũng có quyền thỏa thuận thay đổi pháp luật áp dụng đối với HĐMBHHQT với điều kiện việc thay đổi này không ảnh hưởng đến quyền, lợi ích hợp pháp của người thứ ba được hưởng trước khi thay đổi pháp luật áp dụng, trừ trường hợp người thứ ba đồng ý.

– Áp dụng pháp luật có mối liên hệ gắn bó nhất: Trong trường hợp các bên không lựa chọn pháp luật áp dụng, nếu xảy ra tranh chấp từ HĐMBHHQT thì pháp luật áp dụng cho hợp đồng là pháp luật của nước có mối quan hệ gắn bó nhất. Căn cứ Điểm a Khoản 2 Điều 683 Bộ luật Dân sự 2015, trường hợp được coi là pháp luật của nước có mối quan hệ gắn bó nhất với HĐMBHHQT là pháp luật của nước nơi người bán cư trú nếu là cá nhân hoặc nơi thành lập nếu là pháp nhân. Tuy nhiên, theo Khoản 3 Điều 683 Bộ luật Dân sự 2015, trong trường hợp chứng minh được nguồn luật của một nước khác với nước theo quy định tại Khoản 2 có mối quan hệ gắn bó hơn với hợp đồng thì pháp luật của nước đó sẽ được áp dụng.

Như vậy, khi giải quyết tranh chấp liên quan đến HĐMBHHQT mà các bên không thỏa thuận về lựa chọn pháp luật giải quyết tranh chấp thì pháp luật được lựa chọn có thể là pháp luật Việt Nam hoặc cũng có thể là pháp luật nước ngoài, tùy theo pháp luật nước nào có mối quan hệ mật thiết, gắn bó với HĐMBHHQT đó hơn.

Trên đây là nội dung bài viết “Pháp luật áp dụng giải quyết tranh chấp hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế tại Tòa án Việt Nam” mà chúng tôi gửi đến bạn đọc. Hi vọng bài viết nêu trên hữu ích đối với những ai đang quan tâm đến vấn đề này.

Trân trọng,

Công ty Luật TNHH Quốc Tế TNTP và Các Cộng Sự

  • Văn phòng tại Hồ Chí Minh:
    Phòng 1901, Tầng 19 Tòa nhà Saigon Trade Center, 37 Tôn Đức Thắng, Phường Bến Nghé, Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh
  • Văn phòng tại Hà Nội:
    Số 2, Ngõ 308 Tây Sơn, Phường Thịnh Quang, Quận Đống Đa, Hà Nội
  • Email: ha.nguyen@tntplaw.com


    Bản quyền thuộc về: Công ty Luật TNHH Quốc Tế TNTP và Các Cộng Sự