Áp dụng Bộ luật Dân sự hay Luật thương mại trong giải quyết tranh chấp hợp đồng thi công xây dựng?
Tại Việt Nam, hợp đồng thi công xây dựng chịu sự điều chỉnh của nhiều văn bản pháp luật khác nhau. Khi Luật Xây dựng 2014 (“Luật Xây dựng”) – với tư cách luật chuyên ngành – không có quy định cụ thể, các cơ quan giải quyết tranh chấp sẽ xem xét tới Bộ luật Dân sự 2015 (“Bộ luật Dân sự”), Luật Thương mại 2005 (“Luật Thương mại”) và các văn bản hướng dẫn liên quan như Nghị định 37/2015/NĐ–CP quy định chi tiết về hợp đồng xây dựng (“Nghị định 37”). Điều này dẫn tới tình trạng áp dụng pháp luật không thống nhất khi giải quyết tranh chấp phát sinh từ hợp đồng thi công xây dựng. Bài viết này sẽ làm rõ sự khác nhau khi áp dụng các nguồn luật khác nhau để giải quyết tranh chấp hợp đồng thi công xây dựng, từ đó làm rõ: khi Luật Xây dựng không có quy định, liệu Bộ luật Dân sự hay Luật Thương mại nên được ưu tiên áp dụng.
1.Luật áp dụng trong Giải quyết tranh chấp Hợp đồng thi công xây dựng
Nguyên tắc chủ đạo trong việc xác định pháp luật áp dụng giải quyết tranh chấp hợp đồng thi công xây dựng là áp dụng luật chuyên ngành, cụ thể là Luật Xây dựng. Trong trường hợp Luật Xây dựng không có quy định, Bộ luật Dân sự, Luật Thương mại và các văn bản hướng dẫn sẽ được xem xét để áp dụng. Hiện nay, Luật Xây dựng chưa có các quy định điều chỉnh 03 về: (i) thời hiệu khởi kiện, (ii) mức phạt vi phạm hợp đồng và (iii) mức lãi chậm thanh toán.
a.Vấn đề xác định thời hiệu khởi kiện
Luật Xây dựng hiện không quy định trực tiếp về thời hiệu khởi kiện mà dẫn chiếu sang các quy định có liên quan. Khoản 3 Điều 45 Nghị định 37 quy định “Thời hiệu khởi kiện theo thủ tục Trọng tài hoặc thời hiệu khởi kiện lên Tòa án giải quyết tranh chấp hợp đồng xây dựng được thực hiện theo quy định có liên quan của pháp luật”. Như vậy, để xác định thời hiệu, Tòa án hoặc Trọng tài phải dựa vào các quy định của Bộ luật Dân sự, Luật Thương mại.
Bộ luật Dân sự quy định thời hiệu khởi kiện là 03 năm kể từ ngày người có quyền yêu cầu biết hoặc phải biết quyền và lợi ích hợp pháp của mình bị xâm phạm (Điều 429 Bộ luật Dân sự); trong khi Luật Thương mại quy định thời hiệu này là 02 năm kể từ thời điểm quyền và lợi ích hợp pháp bị xâm phạm (Điều 319 Luật Thương mại).
b.Vấn đề xác định mức phạt vi phạm hợp đồng
Luật Xây dựng hiện chỉ có quy định với trường hợp công trình xây dựng sử dụng vốn nhà nước, cụ thể mức phạt vi phạm hợp đồng không vượt quá 12% giá trị phần hợp đồng bị vi phạm (Khoản 2 Điều 146 Luật Xây dựng). Tuy nhiên, chưa có quy định mức phạt vi phạm đối với trường hợp các công trình xây dựng không sử dụng vốn nhà nước.
Do đó, với các công trình xây dựng không sử dụng vốn nhà nước, theo Bộ luật Dân sự, các bên có quyền thỏa thuận mức phạt trong hợp đồng (Khoản 2 Điều 418 Bộ luật Dân sự). Ngược lại, trong trường hợp áp dụng Luật Thương mại, mức phạt vi phạm sẽ bị giới hạn ở mức 8% giá trị phần nghĩa vụ vi phạm (Điều 301 Luật Thương mại).
c.Vấn đề xác định mức lãi chậm thanh toán
Luật Xây dựng hiện nay chỉ quy định bên giao thầu phải bồi thường cho bên nhận thầu trong trường hợp chậm thanh toán mà không quy định cụ thể mức lãi chậm trả (Điểm d Khoản 4 Điều 146 Luật Xây dựng). Nghị định 37 có hướng dẫn chi tiết hơn đối với trường hợp sử dụng vốn nhà nước hoặc dự án đối tác công tư, theo đó mức lãi chậm trả được xác định “theo lãi suất quá hạn do ngân hàng thương mại nơi bên nhận thầu mở tài khoản thanh toán công bố tương ứng với các thời kỳ chậm thanh toán” (Khoản 2 Điều 43 Nghị định 37).
Tuy nhiên, quy định trên không áp dụng đối với công trình không sử dụng vốn nhà nước. Trường hợp áp dụng Bộ luật Dân sự, mức lãi do các bên thỏa thuận nhưng không vượt quá 20%/năm của khoản tiền chậm trả; nếu không thỏa thuận, áp dụng mức lãi 10%/năm (Điều 357 và Điều 468 Bộ luật Dân sự). Trường hợp Luật Thương mại được áp dụng, mức lãi chậm trả sẽ được xác định dựa trên “mức lãi suất nợ quá hạn trung bình trên thị trường tại thời điểm thanh toán tương ứng với thời gian chậm trả” theo Điều 306 Luật Thương mại.
Như vậy, có thể thấy Bộ luật Dân sự và Luật Thương mại tồn tại sự khác biệt lớn đối với các vấn đề về thời hiệu khởi kiện, mức phạt vi phạm và mức lãi chậm thanh toán trong hợp đồng thi công xây dựng. Những sự khác biệt này có thể gây ảnh hưởng trực tiếp tới quyền và lợi ích của các bên trong quá trình giải quyết tranh chấp phát sinh từ hợp đồng thi công xây dựng.
2.Đánh giá về luật áp dụng trong Giải quyết tranh chấp Hợp đồng thi công xây dựng
Sự khác nhau khi áp dụng pháp luật giải quyết tranh chấp hợp đồng thi công xây dựng như trên đặt ra câu hỏi khi Luật Xây dựng không có quy định, Bộ luật Dân sự hay Luật Thương mại sẽ được áp dụng? Hiện nay, có 02 quan điểm liên quan tới vấn đề này.
a.Quan điểm 1: Ưu tiên áp dụng Bộ luật Dân sự bởi quan hệ phát sinh từ hợp đồng thi công xây dựng là quan hệ dân sự
Quan điểm này đã được thể hiện trong Dự thảo Án lệ 06/2024, theo đó Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao xác định “Quan hệ phát sinh từ hợp đồng thi công xây dựng là quan hệ dân sự, do đó Bộ luật Dân sự sẽ được áp dụng trong trường hợp Luật Xây dựng không có quy định”.
Hiện nay chưa có lý giải cụ thể đối với quan điểm này, tuy nhiên có thể hiểu quan điểm này được đưa ra dựa trên chính định nghĩa về hợp đồng xây dựng (mà hợp đồng thi công xây dựng là một loại hợp đồng xây dựng). Khoản 1 Điều 138 Luật Xây dựng xác định “Hợp đồng xây dựng là hợp đồng dân sự bằng văn bản, thỏa thuận giữa bên giao thầu và bên nhận thầu để thực hiện một phần hay toàn bộ công việc trong hoạt động đầu tư xây dựng”. Định nghĩa này đã xác định hợp đồng xây dựng là một hợp đồng dân sự, do đó các văn bản pháp luật trong lĩnh vực xây dựng (Luật Xây dựng và các văn bản hướng dẫn thi hành) được ưu tiên áp dụng. Khi các văn bản này không có quy định cụ thể, Bộ luật Dân sự với tư cách luật chung trong lĩnh vực dân sự sẽ được áp dụng. Tuy nhiên cho đến thời điểm hiện tại, chưa có quyết định chính thức về việc ban hành Án lệ 06/2024. Vì vậy, quan điểm nêu trên chưa được coi là căn cứ để áp dụng khi giải quyết các tranh chấp phát sinh từ hợp đồng thi công xây dựng.
b.Quan điểm 2: Ưu tiên áp dụng Luật Thương mại bởi bản chất hợp đồng thi công xây dựng là hợp đồng thương mại
Quan điểm thứ 2 cho rằng trong trường hợp Luật Xây dựng không có quy định, Luật Thương mại sẽ được áp dụng. Quan điểm này xuất phát từ việc hợp đồng thi công xây dựng được ký giữa hai doanh nghiệp thực hiện các hoạt động với mục tiêu sinh lợi, và hoạt động này là phù hợp với quy định tại Khoản 1 Điều 3 Luật Thương mại, theo đó “hoạt động thương mại là hoạt động nhằm mục đích sinh lợi, bao gồm mua bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ, đầu tư, xúc tiến thương mại và các hoạt động nhằm mục đích sinh lợi khác”.
Quan điểm này từng được Bộ Xây dựng gián tiếp thừa nhận trong Công văn số 1123/BXD–KTXD ngày 13/05/2019 Bộ Xây dựng gửi Văn phòng Chính phủ giải đáp kiến nghị về thưởng, phạt trong hợp đồng xây dựng rằng: “Những nội dung chưa được quy định tại Nghị định 37, các bên phải căn cứ vào các quy định pháp luật có liên quan để thực hiện (Luật Thương mại, Luật Dân sự…)”. Như vậy, Luật Thương mại vẫn có thể được áp dụng khi pháp luật xây dựng không có quy định cụ thể.
Thực tiễn xét xử cũng cho thấy không phải tất cả các tòa án đều loại trừ Luật Thương mại khỏi pháp luật áp dụng cho hợp đồng thi công xây dựng. Chẳng hạn, Bản án số 660/2022/KDTM–PT ngày 10/11/2022 của Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh và Bản án số 10/2020/KDTM–PT ngày 10/06/2020 của Tòa án nhân dân Thành phố Đà Nẵng đều áp dụng Luật Thương mại để giải quyết các tranh chấp phát sinh từ hợp đồng thi công xây dựng. Điều này chứng tỏ vẫn tồn tại sự thừa nhận trong thực tiễn rằng hợp đồng xây dựng có thể được áp dụng theo Luật Thương mại nếu đáp ứng tiêu chí về hoạt động thương mại.
TNTP cho rằng trường hợp Luật Xây dựng không có quy định cụ thể, Luật Thương mại nên được ưu tiên áp dụng trong quá trình giải quyết tranh chấp phát sinh từ hợp đồng thi công xây dựng. Bởi: Thứ nhất, hợp đồng thi công xây dựng cũng là một loại hợp đồng thương mại bởi các bên ký kết hợp đồng nhằm thực hiện các hoạt động với mục đích sinh lợi. Thứ hai, xét theo nguyên tắc “ưu tiên áp dụng pháp luật chuyên ngành trước luật chung” thì Luật Thương mại là Luật chuyên ngành, Bộ Luật dân sự là luật chung, do đó, nếu Luật thương mại có quy định thì cần phải được ưu tiên áp dụng. Luật dân sự chỉ được áp dụng khi Luật xây dựng, Luật Thương mại không có quy định cụ thể. Điều này được thể hiện tại khoản 3 Điều 4 BLDS 2015 “Trường hợp luật khác có liên quan không quy định hoặc có quy định nhưng vi phạm khoản 2 Điều này thì quy định của Bộ luật này được áp dụng” .
Tuy nhiên, để đảm bảo việc hiểu và áp dụng thống nhất pháp luật trong quá trình giải quyết tranh chấp phát sinh từ hợp đồng thi công xây dựng, thiết nghĩ Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao cần ban hành nghị quyết hoặc thông qua án lệ nhằm hướng dẫn cụ thể, tránh việc mỗi Tòa áp dụng một kiểu khi giải quyết các vụ án phát sinh từ các Hợp đồng thi công xây dựng.
Trên đây là bài viết “Áp dụng Bộ luật Dân sự hay Luật thương mại trong giải quyết tranh chấp hợp đồng thi công xây dựng?” mà TNTP gửi đến bạn đọc. Trường hợp có thông tin cần trao đổi, vui lòng liên hệ với TNTP để được giải đáp.
Trân trọng.