Skip to main content

Cưỡng chế thi hành nghĩa vụ trả tiền: Thu tiền từ hoạt động kinh doanh, thu tiền của người phải thi hành án đang giữ và thu tiền của người phải thi hành án đang do người thứ ba giữ

Trong các loại nghĩa vụ được xác định tại bản án, quyết định, phán quyết của Tòa án hay Trọng tài, nghĩa vụ trả tiền mang tính đặc thù bởi đối tượng của nghĩa vụ là một khoản tiền cụ thể đã được xác định. Tiền là tài sản có tính thanh khoản cao nhất, do đó, việc cưỡng chế thi hành nghĩa vụ trả tiền hiệu quả nhất thường là thu trực tiếp từ các nguồn tiền của người phải thi hành án khi họ không tự nguyện thực hiện. Tiếp nối bài viết trước, bài viết này sẽ tiếp tục làm rõ quy định pháp luật về các biện pháp cưỡng chế hướng tới tài sản là tiền, đó là thu tiền từ hoạt động kinh doanh và thu tiền của người phải thi hành án đang giữ hoặc thu tiền của người phải thi hành án đang do người thứ ba giữ.

1.Cưỡng chế thu tiền từ hoạt động kinh doanh của người phải thi hành án

Trường hợp người phải thi hành án có thu nhập phát sinh từ hoạt động sản xuất, kinh doanh, Chấp hành viên có thể áp dụng biện pháp thu trực tiếp từ nguồn thu nhập này. Biện pháp này phù hợp khi người phải thi hành án là chủ thể kinh doanh và hoạt động kinh doanh của họ mang lại thu nhập có thể dùng để thanh toán nghĩa vụ thi hành án.

Theo khoản 1 Điều 79 Luật Thi hành án dân sự 2008, sửa đổi bổ sung 2014 (“Luật Thi hành án”), Chấp hành viên có quyền ra quyết định thu tiền từ hoạt động kinh doanh của người phải thi hành án. Việc thu tiền này được thực hiện theo định kỳ (có thể là hàng ngày, hàng tuần, hàng tháng, hàng quý hoặc hàng năm) tùy theo tính chất và đặc điểm của ngành nghề kinh doanh phát sinh thu nhập. Sau khi thu tiền từ hoạt động kinh doanh, Chấp hành viên sẽ lập và cấp biên lai cho người phải thi hành án.

Đối với việc xác định số tiền thu định kỳ, Chấp hành viên sẽ căn cứ vào tình hình kinh doanh thực tế và các sổ sách, giấy tờ liên quan. Cùng với đó, căn cứ theo khoản 1 Điều 79 Luật Thi hành án, khi xác định số tiền thu từ hoạt động kinh doanh, Chấp hành viên phải đảm bảo để lại một khoản tiền tối thiểu đủ cho người phải thi hành án duy trì hoạt động kinh doanh và trang trải cuộc sống cơ bản cho bản thân và gia đình.

Ví dụ: Ông G phải trả tiền nợ theo bản án và đang làm chủ một cửa hàng sửa chữa xe máy có doanh thu ổn định. Chấp hành viên H ra quyết định thu tiền từ hoạt động kinh doanh của ông G. Dựa trên khảo sát thực tế, Chấp hành viên H xác định và thực hiện việc thu tiền hàng tháng, mỗi lần 2.000.000 đồng (số tiền còn lại đủ để cho ông G đảm bảo việc nhập phụ tùng xe và chi trả các khoản sinh hoạt phí tối thiểu).

2.Cưỡng chế thu tiền của người phải thi hành án đang giữ

Đây là biện pháp cưỡng chế nhằm trực tiếp thu hồi khoản tiền mặt đang do chính người phải thi hành án trực tiếp cất giữ. Biện pháp này được Chấp hành viên xem xét áp dụng khi có căn cứ xác định rằng người phải thi hành án đang nắm giữ một khoản tiền thuộc sở hữu của họ.

Theo quy định tại Điều 80 Luật Thi hành án, trường hợp phát hiện người phải thi hành án đang giữ tiền và có căn cứ xác định đó là tiền của người phải thi hành án, Chấp hành viên có quyền ra quyết định thu khoản tiền đó để thi hành án. Sau khi ban hành quyết định cưỡng chế thu hồi khoản tiền đang giữ của người bị thi hành án, Chấp hành viên thực hiện thu tiền, lập biên bản thu tiền ghi nhận sự việc, số lượng tiền thu được và cấp biên lai thu tiền cho người phải thi hành án.

Ví dụ: Ông M không tự nguyện thi hành án đối với khoản nợ phải thi hành án là 100.000.000 đồng nên Chấp hành viên K thông báo mời ông M lên làm việc. Chấp hành viên phát hiện ông M đang giữ một vali chứa 200.000.000 đồng. Theo đó, khi có căn cứ xác định khoản tiền này là tài sản của Ông M, Chấp hành viên K có quyền ra quyết định cưỡng chế thu khoản tiền 100.000.000 đồng để thi hành án. Sau khi tiến hành thu tiền từ ông M, Chấp hành viên sẽ lập biên bản thu tiền có chữ ký của ông M và cấp biên lai thu tiền cho ông M.

3.Cưỡng chế thu tiền của người phải thi hành án đang do người thứ ba giữ

Biện pháp này tương tự biện pháp thu tiền do người phải thi hành án đang giữ vì đều hướng đến tài sản là tiền mặt, nhưng khác ở chỗ khoản tiền đó lại đang do một bên thứ ba nắm giữ. Biện pháp này được áp dụng khi Chấp hành viên có căn cứ xác định rằng người thứ ba này đang giữ một khoản tiền thuộc sở hữu của người phải thi hành án

Theo Điều 81 Luật Thi hành án và khoản 1 Điều 23 Nghị định số 62/2015/NĐ-CP, khi có căn cứ xác định người thứ ba đang giữ tiền của người phải thi hành án, Chấp hành viên ra quyết định thu khoản tiền đó. Chấp hành viên có thể lập biên bản làm việc hoặc ban hành văn bản yêu cầu người thứ ba giao nộp khoản tiền đó.

Khi nhận được văn bản hoặc yêu cầu của Chấp hành viên, người thứ ba đang giữ tiền có nghĩa vụ phải giao nộp khoản tiền đó cho Chấp hành viên. Sau khi nhận tiền, Chấp hành viên sẽ lập biên bản thu tiền, cấp biên lai thu tiền cho người thứ ba đã giao nộp và thông báo cho người phải thi hành án biết về việc thu hồi này.

Nếu người thứ ba không phối hợp thực hiện yêu cầu giao nộp tiền của Chấp hành viên mà lại giao tiền đó cho người phải thi hành án hoặc người khác dẫn đến việc không thể thi hành án được, thì người thứ ba phải bồi thường thiệt hại theo quy định của pháp luật.

Ví dụ: Chấp hành viên Q có căn cứ xác định ông S đang giữ 1.500.000.000 đồng của bà N – là người phải thi hành nghĩa vụ trả tiền cho ông T 120.000.000 đồng. Chấp hành viên Q ra quyết định thu khoản tiền 120.000.000 đồng đang do ông S giữ để thi hành án. Chấp hành viên gửi văn bản yêu cầu ông S giao nộp 120.000.000 đồng. Khi ông S giao tiền, Chấp hành viên Q thu tiền, lập biên bản thu tiền, cấp biên lai cho ông S và thông báo cho bà N về việc thu tiền từ ông S.

Trên đây là bài viết “Cưỡng chế thi hành nghĩa vụ trả tiền: Thu tiền từ hoạt động kinh doanh và thu tiền của người phải thi hành án đang giữ hoặc do người thứ ba giữ” gửi tới Quý bạn đọc. Hy vọng bài viết hữu ích với độc giả đang quan tâm tới vấn đề này.

Trân trọng.

 

 

Công ty Luật TNHH Quốc Tế TNTP và Các Cộng Sự

  • Văn phòng tại Hồ Chí Minh:
    Phòng 1901, Tầng 19 Tòa nhà Saigon Trade Center, 37 Tôn Đức Thắng, Phường Bến Nghé, Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh
  • Văn phòng tại Hà Nội:
    Số 2, Ngõ 308 Tây Sơn, Phường Thịnh Quang, Quận Đống Đa, Hà Nội
  • Email: ha.nguyen@tntplaw.com


    Bản quyền thuộc về: Công ty Luật TNHH Quốc Tế TNTP và Các Cộng Sự