Quan hệ bảo lãnh phát sinh theo sự thỏa thuận giữa bên bảo lãnh và bên nhận bảo lãnh thông qua hợp đồng bảo lãnh. Dựa trên các quy định về pháp luật của bảo lãnh, bảo lãnh được thực hiện theo nguyên tắc là i) Bảo lãnh có điều kiện khi bên bảo lãnh phải thực hiện nghĩa vụ khi bên được bảo lãnh không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ; ii) Bảo lãnh không điều kiện trong trường hợp bên bảo lãnh phải thực hiện nghĩa vụ khi bên được bảo lãnh không có khả năng thực hiện nghĩa vụ và không có thỏa thuận khác. Trong bài viết dưới đây, TNTP sẽ trình bày cụ thể hơn về thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh theo quy định pháp luật.
1. Căn cứ thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh
Căn cứ Khoản 1 Điều 44 Nghị định 21/2021/NĐ-CP, bên bảo lãnh phải thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh khi nghĩa vụ được bảo lãnh bị vi phạm theo một trong các căn cứ sau đây:
• Do bên được bảo lãnh không thực hiện nghĩa vụ đúng thời hạn hoặc không thực hiện nghĩa vụ trước thời hạn theo thỏa thuận hoặc thực hiện không đầy đủ nghĩa vụ hoặc thực hiện không đúng nội dung của nghĩa vụ;
• Do bên được bảo lãnh không có khả năng thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh;
• Căn cứ khác theo thỏa thuận hoặc theo quy định của Bộ luật Dân sự, luật khác liên quan.
2. Nội dung của thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh
• Trường hợp có căn cứ, bên nhận bảo lãnh thông báo cho bên bảo lãnh biết để thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh. Bên bảo lãnh có quyền từ chối thực hiện nghĩa vụ trong trường hợp căn cứ được bên nhận bảo lãnh thông báo không thuộc phạm vi cam kết bảo lãnh.
• Bên bảo lãnh phải thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh trong thời hạn thỏa thuận. Trường hợp không có thỏa thuận thì bên bảo lãnh phải thực hiện trong thời hạn hợp lý kể từ thời điểm nhận được thông báo của bên nhận bảo lãnh.
• Bên bảo lãnh đã thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh thì bên nhận bảo lãnh phải thông báo cho bên được bảo lãnh biết. Trường hợp bên được bảo lãnh vẫn thực hiện nghĩa vụ được bảo lãnh thì bên bảo lãnh có quyền yêu cầu bên nhận bảo lãnh hoàn trả cho mình tài sản đã nhận hoặc giá trị tương ứng phần nghĩa vụ bảo lãnh đã thực hiện.
• Khi nhiều người cùng bảo lãnh một nghĩa vụ thì phải liên đới thực hiện việc bảo lãnh, trừ trường hợp có thỏa thuận hoặc pháp luật có quy định bảo lãnh theo các phần độc lập; bên có quyền có thể yêu cầu bất cứ ai trong số những người bảo lãnh liên đới phải thực hiện toàn bộ nghĩa vụ. Khi một người trong số những người bảo lãnh liên đới đã thực hiện toàn bộ nghĩa vụ thay cho bên được bảo lãnh thì có quyền yêu cầu những người bảo lãnh còn lại phải thực hiện phần nghĩa vụ của họ đối với mình.
3. Miễn việc thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh
• Trường hợp bên bảo lãnh phải thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh mà bên nhận bảo lãnh miễn việc thực hiện nghĩa vụ cho bên bảo lãnh thì bên được bảo lãnh không phải thực hiện nghĩa vụ đối với bên nhận bảo lãnh, trừ trường hợp có thỏa thuận hoặc pháp luật có quy định khác.
• Trường hợp chỉ một trong số nhiều người cùng bảo lãnh liên đới được miễn việc thực hiện phần nghĩa vụ bảo lãnh của mình thì những người khác vẫn phải thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh của họ.
• Trường hợp một trong số những người nhận bảo lãnh liên đới miễn cho bên bảo lãnh không phải thực hiện phần nghĩa vụ đối với mình thì bên bảo lãnh vẫn phải thực hiện phần nghĩa vụ còn lại đối với những người nhận bảo lãnh liên đới còn lại.
4. Chấm dứt thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh
Bảo lãnh chấm dứt trong trường hợp sau đây:
• Nghĩa vụ được bảo lãnh chấm dứt.
• Việc bảo lãnh được hủy bỏ hoặc được thay thế bằng biện pháp bảo đảm khác.
• Bên bảo lãnh đã thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh.
• Theo thỏa thuận của các bên.
Trên đây là bài viết “Thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh theo quy định pháp luật” mà TNTP gửi đến bạn đọc. Trường hợp có vấn đề cần trao đổi, vui lòng liên hệ với TNTP để được hỗ trợ kịp thời.
Trân trọng,